Chàng nằm như thế rất lâu. Có những khi chàng như tỉnh giấc, và những khi ấy, chàng nhận thấy đêm đã xuống từ lâu, nhưng không hề có ý muốn dậy.
Cuối cùng chàng thấy trời đã sáng hẳn1. Chàng nằm im trên đi-văng, tâm trí còn bàng hoàng vì cơn mê vừa qua. Từ dưới phố vọng lên những tiếng quát tháo kinh khủng nhói cả tai. Vả chăng đêm nào cũng vậy, khoảng hơn hai giờ sáng ở dưới cửa sổ lại nghe thấy những tiếng quát tháo như thế. Và giờ đây chính những tiếng quát ấy đã đánh thức chàng dậy. “À! Lũ say rượu đã kéo nhau ra về rồi đây” – chàng nghĩ thầm, – hơn hai giờ sáng rồi, chàng bỗng choàng dậy, như có ai nhấc bổng chàng lên khỏi đi-văng. – Sao, hơn hai giờ sáng rồi ư? Chàng ngồi dậy và chợt nghĩ ra. Trong nháy mắt, chàng sực nhớ lại tất cả những việc đã qua.
Phút đầu chàng ngỡ mình phát điên. Khắp người chàng thấy lạnh toát ra, chắc cũng vì cơn sốt đã bắt đầu nổi lên từ lâu, trong khi chàng ngủ. Song bây giờ chàng run lên cầm cập, mạnh đến nỗi răng đánh vào nhau như muốn bật tung ra, toàn thân chàng choáng váng hẳn đi. Chàng mở hé cánh cửa và bắt đầu nghe ngóng: trong nhà im phăng phắc, mọi vật đều ngủ say.
Chàng ngỡ ngàng đưa mắt nhìn xuống người mình và nhìn mọi vật xung quanh, lòng băn khoăn không sao hiểu nổi: làm thế nào mà hôm qua, khi vào buồng, chàng lại không cài cửa lại và không những cứ để nguyên cả áo quần gieo mình xuống đi-văng, mà ngay cả mũ cũng không cất nữa. Khi chàng nằm xuống nó đã buột ra và nay còn nằm trên sàn nhà, ngay cạnh gối. “Nếu có ai vào họ sẽ nghĩ ra sao đây? Hẳn là họ sẽ nghĩ rằng ta say, nhưng…”. Chàng nhảy nhồm ra cửa sổ. Ở đây có đủ ánh sáng, chàng hối hả xem xét người mình suốt từ đầu đến chân: áo quần có còn vết gì không? Nhưng cứ thế nầy thì không thể xem xét gì được: người chàng cứ run lên lẩy bẩy. Chàng lần lượt cởi hết áo quần ra xem lại thật kỹ. Chàng lật đi lật lại xem từng đường may, từng mụn vá, và vẫn chưa yên tâm, chàng xem lại từng cái một đến ba lần liền. Nhưng hình như không có gì cả không thấy một dấu vết nào; chỉ có một chỗ gấu quần xổ tung ra, xơ vải thấm đầy máu đông đặc. Chàng lấy con dao xếp lớn xén hết chỗ xơ đi. Ngoài ra hình như không còn gì nữa. Bỗng chàng sực nhớ ra rằng cái bóp tiền và những đồ đạc lấy trong hòm mụ già ra cho đến nay vẫn nằm trong túi chàng. Mãi cho đến nay mà chàng vẫn chưa nghĩ đến việc rút nó ra và đem giấu đi?
Ngay bây giờ, trong khi xem xét áo quần, chàng vẫn không nhớ ra. Thế là thế nào? Trong một nhoáng chàng lôi hết ra ngoài và vứt cả lên bàn. Chàng lại còn lộn cả các túi áo ra cho chắc bụng để không còn sót lại một cái gì nữa, xong chàng vò tất cả các thứ đó bỏ vào một góc phòng, nơi giấy dán tường bong ra và rách một lỗ.
Chàng nhét hết các thứ vào cái lỗ ấy, dưới làn giấy dán tường. “Ổn rồi! Không còn thấy vết tích đâu nữa, cả cái bóp cũng thế!” – chàng mừng rỡ nghĩ thầm trong khi đứng dậy nhìn đờ đẫn vào cài góc và cái lô giấy rách bây giờ cộm hẳn lên. Chợt cả người chàng run bắn lên vì kinh hãi: “Trời ơi, – chàng tuyệt vọng thều thào – mình làm sao thế nầy? Thế mà gọi là giấu kín ư? Đời thuở ai lại đi giấu như thế?”. Quả tình chàng quên không tính đến các thứ nầy; chàng tưởng là mình sẽ lấy tiền thôi, cho nên không chuẩn bị trước chỗ cất giấu.
“Nhưng bây giờ, thì ta mừng cái gì mới được chứ? – chàng nghĩ thầm. – Có ai lại đi giấu như thế bao giờ? Đúng là mình mất hẳn trí khôn rồi!”
Chàng bải hoải ngồi xuống đi-văng và lập tức lại run lên cầm cập. Như một cái máy, chàng kéo chiếc áo khoác mùa đông cũ kỹ của sinh viên vắt trên chiếc ghế đặt bên cạnh, một chiếc áo hãy còn ấm, nhưng đã rách bươm ra, đắp lên người, và cơn mê sảng lại ập vào người chàng. Chàng thiếp đi.
Chỉ độ năm phút sau chàng lại choàng dậy và lập tức hoáng hốt vồ lấy đống quần áo. “Làm sao mình lại có thể ngủ trong khi chưa làm xong gì cả! Đúng thế, đúng thế rồi: mình vẫn chưa tháo cái quai ở nách áo ra. quên bẵng đi mất, một việc như thế mà lại quên được! Một tang vật rành rành ra như thế?”. Chàng giật đứt cái quai và hối hả xé vụn nó ra từng manh rồi nhét vào đống quần áo dưới gối. “Dù sao cũng không ai ngờ vực những mảnh gì nầy; hình như thế, hình như thế đấy!” – Chàng đứng ở giữa phòng nhắc đi nhắc lại, và với một sức chú ý căng thẳng đến nỗi nhức cả mắt, chàng lại xem xét xung quanh, trên sàn nhà cũng như khắp các nơi khác, xem mình có còn quên gì nữa không. Chàng biết chắc rằng mình đang mất hết, ngay cả trí nhớ, ngay cả khả năng suy luận đơn giản nhất cũng thế, và bắt đầu lo lắng ray rứt không sao chịu nổi.
Sao, chẳng lẽ hình phạt đã bắt đầu, chẳng lẽ giờ hành hình đã điểm?… Kia rồi, kia rồi, mình biết ngay mà? Quả nhiên những mảnh xơ chàng xén ở gấu quần còn vứt bừa ra sàn nhà ngay chính giữa phòng, ai vào cũng có thể trông thấy ngay được! “Mình làm sao thế nầy nữa!” – Chàng lại kêu lên như người mất trí.
Đến đây chàng nẩy ra một ý nghĩ kỳ lạ: có thể là áo quần chàng chỗ nào cũng bê bết những máu, có lẽ còn có nhiều vết máu lắm, chẳng qua chàng không trông thấy, không nhận ra đấy thôi, vì đầu óc chàng đã suy nhược, rối loạn, trí khôn đã mờ đi. Bỗng chàng sực nhớ ra rằng trên cái bóp tiền cũng phải có máu, vì khi ta đút túi cái hộp hãy còn ướt!” Chàng lập tức lộn túi quần ra. Quả nhiên trên lần vải lót túi có những vết máu? “Thế nghĩa là ta chưa mất hẳn trí khôn, thế nghĩa là ta hãy còn khả năng suy luận, còn trí nhớ, mới có thể nghĩ ra được điều đó chứ? – chàng đắc chí nghĩ thầm và hớn hở hít mạnh không khí vào căng cả lồng ngực, – chẳng qua vì sốt nên bị suy nhược, mê sảng trong chốc lát thôi”. Chàng liền xé miếng vải lót túi quần bên trái ra. Vừa lúc ấy một tia năng chiếu vào chiếc ủng bên trái của chàng: ở đầu chiếc bít tất thòi ra ngoài mõm giầy hình như có những vết bẩn. Chàng cởi chiếc bít tất ra: “Đúng là có vết! Mũi bít tất nhơm nhớp những máu; chắc là chàng đã sơ ý bước vào vũng máu… “Nhưng bây giờ biết làm thế nào? Biết giấu chiếc bít tất, cái mảnh xơ, cái treo túi nầy đi đâu?”.
Chàng vơ cả một nắm và đứng sững ra ở giữa phòng.
“Bỏ vào lò sưởi chăng?” Nhưng đó là nơi họ sẽ bới tìm trước tiên. Đốt! Nhưng lấy gì mà đốt? Đến diêm cũng không có nữa kia mà. Không, tốt hơn là hãy đem một chỗ nào mà vứt. Phải rồi? Vứt đi thì hơn! – chàng nhắc đi nhắc lại và ngồi xuống đi-văng, – mà phải đi vứt ngay bây giờ, không chậm trễ!” Nhưng đầu chàng lại cứ trĩu xuống gối; ngực chàng lại rung lên từng cơn không sao cưỡng nổi; chàng kéo áo khoác lên đắp.
Và mãi hồi lâu, đến mấy tiếng liền, chàng cứ chập chờn với ý nghĩ “phải đi ngay bây giờ, không lần lữa gì nữa, phải đến một chỗ nào mà vứt hết các thứ nầy cho mất tang đi, nhanh lên, nhanh lên!” Đã mấy lần chàng choàng người lên, muốn đứng dậy mà không được. Một tiếng đập cửa rất mạnh thức chàng tỉnh hẳn.
– Kìa mở ra chứ, chết rồi hay sao thế? Cứ ngủ li bì mãi! – Naxtaxia vừa kêu vừa nện quả đấm vào cửa, – ngủ suốt mấy ngày liền? Đúng hệt như con chó! Mở ra nào. Mười giờ rồi.
– Có lẽ đi đâu vắng cũng nên? – một giọng đàn ông nói.
Chà giọng lão gác cổng… Lão muốn gì thế? Chàng choàng dậy ngồi trên đi-văng. Tim chàng đập mạnh đến đau cả ngực.
– Thế thì ai chốt cửa lại? – Naxtaxia cãi, – chà lại sinh ra cái trò chốt với cài! Sợ người ta rinh mình đi mất chắc? Mở ra nào, đồ ngốc, dậy đi!
Họ muốn gì? Tại sao lão gác cổng lại lên đây? Họ biết hết rồi. Kháng cự hay là chịu mở cửa? Mẹ chúng nó…
Chàng nhỏm dậy, chồm về phía trước và nhấc then cửa lên. Phòng chàng chật đến nỗi có thể cứ ngồi ở giường cùng mở được cửa.
Đúng như chàng đoán, lão gác cổng đang đứng trước cửa với Naxtaxia.
Naxtaxia nhìn chàng một cách khác thường. Chàng đưa mắt thách thức và tuyệt vọng nhìn lão gác cổng.
Lão im lặng, đưa cho chàng một tờ giấy xám gấp làm đôi, niêm bằng thứ xi gắn cổ chai.
– Trát ở sở gửi đến, – lão vừa trao giấy vừa nói.
– Sở nào?…
– Sở cảnh sát, giấy đòi anh lên sở cảnh sát.
– Sở cảnh sát à!… Việc gì thế?
– Tôi làm thế nào mà biết được. Họ đòi thì đi thôi. – Lão chăm chú nhìn chàng, đảo mắt quanh phòng một lượt rồi quay ra.
– Cậu ốm thật rồi hay sao thế? – Naxtaxia hỏi, mắt vẫn nhìn chàng đăm đăm. Lão gác cổng cũng ngoái đầu lại một lát. – Sốt từ hôm qua, – Naxtaxia nói thêm. Chàng không đáp, tay vẫn cầm tờ giấy, không bóc ra.
– Thôi đừng dậy nữa! – Naxtaxia ái ngại nói tiếp khi thấy chàng thả chân xuống sàn. – Ốm thì đừng đi nữa, chẳng có gì gấp đâu, tay cậu cầm cái gì thế? – chàng nhìn xuống: tay phải chàng đang nắm mớ vải xớ cắt ở gấu quần, chiếc bít tất, miếng rẻo túi quần.
Vừa qua chàng đã cầm nguyên cả các thứ đó mà ngủ. Mãi về sau, khi nghĩ lại, chàng mới nhớ rằng trong cơn sốt đã có lần chàng thức giấc, nửa mê nửa tỉnh, nắm mở giẻ thật chặt và cứ thế mà ngủ lại.
– Xem cậu ta nhặt được mở giẻ ở đâu mà ngủ cũng không rời ra, như thể của quý ấy… – Nói đoạn Naxtaxia cười rũ ra từng cơn như thường lệ. Trong nháy mắt chàng đút hết nắm giẻ xuống dưới vạt áo và trừng trừng giương mắt nhìn chị ta. Tuy lúc ấy chàng rất ít khả năng suy nghĩ tỉnh táo, Raxkonikov cũng cảm thấy rằng thái độ của những kẻ đi bắt người hẳn không như thế. “Nhưng còn… sở cảnh sát”.
– Uống nước chè nhé? Có muốn uống không? Tôi sẽ đem lại, hãy còn đấy!
– Không… tôi đi đây! Tôi đi ngay dây, – chàng đứng dậy lẩm bẩm.
– Nhưng liệu có xuống nổi thang gác không đã nào?
– Tôi cứ đi…
– Ừ muốn đi thì đi.
Naxtaxia theo sau người gác cổng lui ra. Chàng lập tức lao người ra chỗ sáng xem lại chiếc bít tất và miếng rẻo: “Có vết, nhưng không rõ lắm; bùn lấm bê bết, lại chà xát mãi nên màu cùng bạc đi. Không biết trước thì không thấy gì đâu. Thế nghĩa là Naxtaxia đứng xa không thể nhìn thấy gì được. Lạy Chúa!”. Chàng lập cập bóc phong bì ra đọc. Chàng đọc hồi lâu và mãi cuối cùng mới hiểu ra. Đó là một tờ trát thông thường của quan cảnh sát yêu cầu đến trình tại phòng giấy quận trưởng vào lúc chín giờ rưỡi ngày hôm nay.
“Chuyện quái gì thế nhỉ? Mình có việc gì dính dáng đến cảnh sát đâu? Mà tại sao lại đúng vào hôm nay? – chàng ngầm nghĩ, lòng bàn khoăn ray rứt. – Trời ơi, sao cho chóng xong đi” Chàng quỳ xuống toan cầu nguyện, nhưng rồi lại bật cười – không phải cười lời cầu nguyện mà cười bản thân mình. Chàng bắt đầu hối hả mặc áo. Ra sao thì ra, đã hỏng thì cho hỏng nốt, cần gì! Cứ đi chiếc tất vào? – chàng chợt nghĩ, – càng trát bụi vào, càng mất đâu. Nhưng vừa luồn chiếc bít tất vào chàng đã kinh tởm và khiếp sợ rút nó ra. Rồi nhớ ra rằng không còn chiếc nào khác, chàng lại đi vào và cười phá lên. “Tất cả những cái đó đều là ước lệ, đều là tương đối, đó chỉ là những cái hình thức, – ý nghĩ ấy vụt thoáng qua trí chàng như chỉ chạm hờ vào một góc lề tư tưởng, trong khi cả người chàng run lên cầm cập, – Ấy thế mà ta vẫn xỏ chân vào đấy! Rốt cục rồi cũng xỏ chân vào!” Nhưng rồi tiếng cười nhường chỗ ngay cho nỗi tuyệt vọng. “Không… mình không đủ sức…” – chàng thầm nghĩ. Chân chàng run lẩy bẩy. “Run vì sợ đấy – chàng lẩm bẩm nói một mình. Đầu chàng váng lên và nhức nhối vì cơn sốt. “Đây là một quỷ kế! Chúng nó muốn bày mưu nhử mình đến rồi hỏi cũng bất thình lình” – chàng nghĩ tiếp khi ra cầu thang. “Tệ hại nhất là bây giờ mình gần như đang mê sảng… mình có thể buột mồm nói bậy…”
Trên cầu thang chàng sực nhớ rằng mình vẫn để nguyên các thứ trong cái lỗ thủng trên tấm giấy dán tường, – “mà có lẽ họ cố nhử cho mình đi vắng để soát nhà cũng nên?” – chàng chợt nghĩ ra và dừng lại. Nhưng một tâm trạng tuyệt vọng, một thứ trâng tráo của kẻ cùng đường đã khống chế chàng, chàng khoát tay một cái và đi thẳng.
“Miễn sao cho chóng xong đi!…”
Ngoài phố nóng bức không sao chịu nổi; suốt mấy ngày hôm ấy không có lấy một giọt mưa. Lại cảnh bụi bặm, vôi gạch, lại mùi xú uế nồng nặc từ các cửa hiệu, các tiệm rượu xông ra, lại những gã say rượu đi lại nhan nhản, những người bán hàng rong bẩn thỉu và những chiếc xe ngựa ọp ẹp. Ánh nắng chói vào mắt chàng nhức buốt; đầu chàng váng hẳn lên – cái cảm giác thông thường của người sốt khi ra đường đột ngột trong một ngày nắng sáng.
Đi đến chỗ rẽ ngoặt sang dãy phố “hôm qua”, chàng bồi hồi lo sợ liếc mắt nhìn vào dãy phố, nhìn toà nhà ấy… và lập tức nhìn sang chỗ khác.
“Nếu họ hỏi, có lẽ ta sẽ nói hết” – chàng nghĩ khi gần đến sở cảnh sát.
Sở cảnh sát cách nhà chàng khoảng một phần tư verxta. Nó vừa dọn sang trụ sở mới đặt ở tầng gác thứ tư của một toà nhà mới. Hồi nó còn ở chỗ cũ, chàng đã có lần ghé vào một lát, nhưng đã lâu lắm rồi. Đi vào cổng, chàng thấy ở bên phải có một cầu thang, và trên cầu thang, một người mu-gich cầm quyển sổ đang đi xuống: “Có những người gác cổng ra vào; thế thì đây đúng là sở cảnh sát rồi”2, chàng phỏng đoán như vậy rồi cứ thế leo lên thang gác, không muốn hỏi ai hết.
“Ta sẽ vào, sẽ quỳ xuống và khai hết từ đầu chí cuối”. – chàng nghĩ khi bước lên tầng thứ tư. Cầu thang chật hẹp, lên thẳng đứng, ngập ngụa nước bẩn vả rác rưởi. Tất cả các gian bếp của tất cả các nhà ở khắp bốn tầng đều trông ra thang gác và cứ thế mở suốt ngày. Cho nên không khí ở đây ngột ngạt lạ lùng. Những người gác cổng sổ cắp nách, những người cảnh binh và những người thường dân nam có nữ có lẽn lên xuống xuống không ngừng. Cánh cửa vào phòng giấy cũng mở toang. Chàng bước vào và dừng lại ở phòng ngoài. Ở đây có mấy người mu-gich đang đứng dợi.
Không khí trong phòng nầy cũng hết sức ngột ngạt, lại thêm mùi sơn ướt ở các phòng xông ra, tanh đến lộn mửa. Đợi được một lát, chàng nảy ra ý đi thẳng vào phòng bên. Các phòng ở đây đều chật và thấp. Một tâm trạng nôn nóng cứ thôi thúc chàng đi sâu mãi vào các phòng trong. Không có ai để ý đến chàng. Ở gian phòng thứ hai có những viên thư lại ăn mặc chẳng hơn gì chàng mấy, đang ngồi viết hí hoáy, trông họ có một vẻ gì kỳ quái. Chàng hỏi thăm một người trong bọn họ.
– Anh cần cái gì?
Chàng chìa tờ trát của sở ra.
– Ông là sinh viên à? – người kia hỏi sau khi nhìn vào giấy.
– Vâng, cựu sinh viên.
Viên thư lại nhìn chàng một lát, song cũng không hề có ý tò mò. Đó là một người có bộ tóc rối xù lên, mắt lờ đờ như thể luôn luôn theo đuổi một ý nghĩ bất đi bất dịch.
“Hỏi hắn thì chẳng biết thêm được gì đâu, hắn dửng dưng đối với mọi việc trên đời” – Raxkonikov thầm nghĩ.
– Ông đi lại đằng kia gặp ông chánh văn phòng, viên thư lại nói và giơ ngón tay ra phía trước chi vào gian phòng ở tận cùng.
Chàng bước vào phòng nầy phòng thứ tư kế từ ngoài vào, một gian phòng chật hẹp và đầy ắp những người là người – đám khách ở đây ăn mặc sạch sẽ hơn những người đứng trong các phòng kia. Trong số khách có hai người đàn bà. Một người để tang, phục sức tồi tàn ngồi trước bàn giấy viên chánh văn phòng và đang viết những gì gì do viên kia đọc. Người đàn bà thứ hai béo phục phịch, da mặt lốm đốm đỏ, dáng bệ vệ, ăn mặc sang trọng và diêm dúa, ngực cài một cái hoa giả to bằng cái đĩa tách, đang đứng đợi một bên. Raxkonikov chìa tờ trát ra cho viên chánh văn phòng. Hắn liếc nhìn qua tờ giấy, nói: “Ông đợi một tí”, rồi tiếp tục đọc cho người đàn bà mặc tang phục viết.
Raxkonikov thở đã nhẹ nhõm hơn. “Chắc là không phải!” Chàng dần dần hoàn hồn, cố hết sức trấn tĩnh và lấy lại can đảm.
“Chỉ cần một cử chỉ dại dột, một hành động bất cẩn hết sức nhỏ nhặt là có thể lộ hết! Hừm… tiếc rằng ở đây khó thở quá, – chàng nghĩ tiếp, – ngột ngạt thế nầy… Đầu đã thấy choáng váng… trí khôn cũng vậy…”.
Chàng thấy hoang mang lạ lùng. Chàng chỉ sợ không tự chủ được. Chàng cố gắng chú ý đến một vật gì hay nghĩ đến một việc gì hoàn toàn xa lạ, nhưng không sao được. Vả chăng viên chánh văn phòng đang thu hút hết sức chú ý của chàng: cứ muốn phân tích vẻ mặt của hắn để phỏng đoán xa gần. Đó là một người rất trẻ, tuổi trạc hai mươi hai nước da ngăm ngăm, vẻ mặt linh hoạt. Trông hắn có vẻ già hơn tuổi. Hắn ăn mặc bảnh bao, theo đúng thời trang, tóc rẽ thành đường ngôi, chải chuốt và bôi sáp cẩn thận, mấy ngón tay trắng trẻo rửa ráy kỹ lưỡng bằng bàn chải, đeo rất nhiều nhẫn và khâu, áo gi-lê mắc những sợi dây chuyền vàng. Với một người ngoại quốc đang đứng đấy hắn lại còn nói dăm ba câu tiếng Pháp nghe khá thông thạo.
– Luyza Ivanovna, bà ngồi xuống chứ, – hắn quay lại một chút nói với người đàn bà mặt đỏ ăn mặc diêm dúa nãy giờ cứ đứng mãi, như thể không dám ngồi xuống, mặc dầu ngay bên cạnh có một chiếc ghế tựa.
– Ich danke3 – bà ta nói khẽ, đoạn ngồi xuống trong tiếng lụa sột soạt. Chiếc áo dài màu xanh nhạt viền đăng-ten trắng của bà ta như một quả khinh khí cầu phồng tướng ra xung quanh ghế và choán đến gần nửa gian phòng. Mùi nước hoa sực nức. Nhưng bà ta hẳn lấy làm ngượng vì mình choán hết nửa phòng và mùi nước hoa của mình cứ bay lên ngào ngạt như vậy, bèn nở một nụ cười vừa bẽn lẽn vừa trâng tráo, nhưng rõ ràng là có ý lo ngại.
Cuối cùng người đàn bà mặc tang phục đã viết xong và đứng dậy. Vừa lúc ấy có một viên sĩ quan nện gót giầy bước vào, vẻ hiên ngang, cứ mỗi bước lại nhích vai một cái trông rất lạ mắt. Hắn vứt chiếc mũ lưỡi trai có đính phù hiệu lên bàn và ngồi vào ghế bành. Người đàn bà sang trọng trông thấy hắn lập tức đứng dậy, và với một vẻ hân hoan đặc biệt, nhún chân xuống chào; nhưng viên sĩ quan không mảy may để ý đến bà ta, còn bà ta thì bây giờ không còn dám ngồi xuống trước mặt hắn nữa. Đó là viên phó quận trưởng cảnh sát khu nầy. Hắn để hai chòm ria mép rất dài màu hung hung chĩa ngang ra hai bên; mặt có những nét rất thanh nhưng không có gì đặc biệt ngoài một vẻ hách dịch nào đó. Hắn nhìn Raxkonikov gườm gườm và phần nào có ý bực tức; chàng ăn mặc tồi tàn quá, và tuy tư thái của chàng đã nhũn nhặn nhưng vẫn không tương xứng với cách trang phục: Raxkonikov đã vô ý nhìn hắn quá thẳng và quá lâu khiến hắn phật ý.
– Anh kia muốn gì hả? – hắn quát, chắc lấy làm lạ rằng một tên khố rách áo ôm như thế mà lại không thèm quay mặt đi khi bắt gặp cái nhìn nảy lửa của hắn.
– Người ta đòi tôi đến… có trát… – Raxkonikov ấp úng trả lời.
– Đây là người sinh viên gọi đến về việc lá đơn đòi nợ – viên chánh văn phòng vội ngẩng đầu lên khỏi đống giấy nói. – Đây ạ? – Đoạn hắn đẩy về phía Raxkonikov một quyển vở và chỉ cho chàng một đoạn viết trên trang giấy, – Ông đọc đi?
“Tiền ư? Tiền gì nhỉ? – Raxkonikov nghĩ, – nhưng, như vậy tức là không phải chuyện ấy”. Và chàng rùng mình lên vì mừng rỡ. Chàng bỗng thấy người nhẹ nhõm lạ lùng. Cả gánh nặng dè trĩu lên vai chàng đã bay biến đi đâu mất.
– Thế trong giấy mời ông đến vào lúc mấy giờ, thưa ông” – viên trung uý quát to, mỗi lúc một cáu tiết, chẳng hiểu vì chuyện gì. – người ta viết là chín giờ, thế mà bây giờ đã hơn mười một giờ rồi!
– Họ mới đưa lại cho tôi cách đây có mười lăm phút, – Raxkonikov dõng dạc nói chõ qua vai, trong lòng cũng đột nhiên thấy nổi giận lên một cách bất ngờ, và thậm chí còn cảm thấy phần nào thích thú trong cơn giận, – Thiết tưởng tôi đang ốm, đang lên cơn sốt thế nầy mà vẫn đến đây, như thế cũng đủ lắm rồi.
– Xin ông đừng có quát lên như thế!
– Tôi không quát, tôi nói rất từ tốn, chính ông quát tôi thì có; tôi là sinh viên, và không cho phép ai được quát tôi cả.
Viên phó quận trường nổi xung lên đến nỗi phút đầu không nói ra được câu nào, chỉ thấy môi hắn lắp bắp làm toé cả bọt ra. Hắn nhảy chồm lên.
– Ông im ng… nga… y! Ông đang ở nơi công đường. Xin ông đừng có v… vô lễ!
– ông cũng đang ở nơi công đường, – Raxkonikov quát lên, – thế mà không những ông quát tháo, ông lại còn hút cả thuốc lá nữa, chính ông vô lễ đối với chúng tôi – Nói xong câu ấy, Raxkonikov có một cảm giác khoái lạc không sao tả xiết.
Viên chánh văn phòng mỉm cười nhìn hai người.
Viên trung uý nóng tính có vẻ lúng túng. Mãi hồi lâu hắn mới rán sức quát lên thật to, giọng nghe rất gượng gạo.
– Đó không phải việc ông ông hãy chịu phiền cũng khai theo như người ta yêu cầu. Alekxandr Grigoryevich, đưa cho ông ấy xem. Người ta kiện ông đấy, ông không chịu trả tiền! Đẹp mặt chưa?…
Nhưng Raxkonikov không còn buồn nghe hắn nói nữa. Chàng háo hức cầm lấy tờ giấy, sốt ruột muốn tìm ngay ra manh mối. Chàng đọc đi đọc lại đến hai lần mà vẫn không hiểu.
– Cái gì thế nầy? – chàng hỏi viên chánh văn phòng.
– Đó là giấy đòi tiền thuê nhà. Một là ông phải trả số tiền còn nợ với tất cả những khoản bồi thường, phụ toán vân vân, hai là phải viết tờ khai cho biết đến bao giờ ông có thể trả, và đồng thời cam kết không ra khỏi kinh đô trước khi trả xong nợ, không bán chác hoặc giấu giếm tài sản của mình đi. Người chủ nợ có quyền đem phát mại tài sản của ông và xử lý với ông đúng luật pháp.
– Nhưng tôi… có nợ gì ai đâu!
– Cái đó thì không phải việc chúng tôi. Chúng tôi chỉ biết là có nhận được một tờ phiếu hợp lệ nhận nợ số tiền thuê nhà là một trăm mười lăm rúp của ông trao cho bà quả phụ viên công chức bậc tám Zarnitxyn cách đây chín tháng, và bà quả phụ Zarnitxyn đã gán tờ giấy nầy cho quan tư vấn pháp đình Shebarov để thanh toán, cho nên sở gọi ông đến đây để trả lời về việc nầy.
– Nhưng bà ta là chủ trọ của tôi kia mà?
– Chủ trọ của ông thì có sao!
Viên chánh văn phòng nhìn chàng với một nụ cười thương hại và bề trên, đồng thời không khỏi có phần đắc chí như khi nhìn một anh chàng khờ khạo mới bắt đầu nếm mùi cay cực, ý như muốn nói: “Thế nào, bây giờ anh thấy trong người ra sao?”. Nhưng chàng thì bây giờ có thiết gì, có hơi đâu mà đi để ý đến những thứ tín phiếu, những việc kiện tụng ấy? Những thứ ấy làm sao có thể đáng cho chàng lo lắng, hay dù chỉ để ý đến thôi cũng vậy! Chàng đứng đấy, đọc, nghe, trả lời vả lại còn hỏi nữa, nhưng tất cả những việc ấy chàng đều làm như cái máy. Giờ phút nầy, tất cả con người chàng đang tràn ngập nỗi hân hoan của bản năng tự vệ đắc thắng, của kẻ vừa thoát ra khỏi mối nguy cơ đang nặng trĩu trên mình; chàng không hề lo xa, phân tích, không hề hình dung những cách đặt và giải quyết những vấn đề sau nầy, không hề nghi ngờ, thắc mắc.
Đó là một giây phút vui sướng trọn vẹn, tự nhiên, thuần tuý thú vật. Nhưng vừa lúc ấy ở sở cảnh sát bỗng diễn ra một cơn giông tố. Viên trung uý, hãy đang giận run lên về thái độ vô lễ của Raxkonikov và hẳn là muốn cứu vãn lại uy thế, hầm hè xông vào xỉ vả người “đàn bà sang trọng” đáng thương kia, nây giờ vẫn nhìn hắn với nụ cười hết sức ngờ nghệch.
– Còn mụ nữa, đồ đĩ rạc! – hắn bỗng gân cổ hét tướng lên người đàn bà mặc tang phục đã ra ngoài – Đêm qua, ở đằng nhà mụ có chuyện gì thế hả? Lại những việc nhơ nhuốc bậy bạ làm toáng cả phố lên. Lại rượu chè, lại ẩu đả. Muốn vào nhà pha trừng giới lắm phỏng? Ta đã nói với mụ, ta đã báo trước hàng mười lần cho mụ biết rằng đến lần thứ mười một ta không dung tha nữa đâu? Thế mà mụ lại chứng nào tật ấy, cái đồ đĩ rạc!
Raxkonikov kinh ngạc đến nỗi tờ giấy buột ra khỏi tay chàng rơi xuống đất. Chàng ngơ ngác nhìn người đàn bà sang trọng đang bị xỉ vả không chút kiêng dè; nhưng chỉ một lát sau chàng chợt hiểu và còn đâm ra thích thú với chuyện nầy nữa là khác. Chàng lắng nghe một cách khoái trá, thậm chí còn muốn cười to lên, cười to lên nữa… Dường như bao nhiêu dây thần kinh của chàng đều rung lên bần bật.
– Ilya Petrovich! – viên chánh văn phòng lo lắng gọi, nhưng rồi phải dừng lại đợi lúc khác, bởi vì kinh nghiệm bản thân đã cho hắn biết rằng viên trung uý nóng nảy đã sôi sục lên rồi thì không còn cách gì ngăn hắn lại nữa.
Về phần người đàn bà sang trọng thì thoạt tiên còn run sợ cuống quít trước cơn sấm sét ấy; nhưng lạ thay, những câu chửi bới càng dôn dập và càng dữ dội, thì vẻ mặt bà ta lại càng hoà nhã, nụ cười của bà hướng về phía viên trung uý hung dữ kia lại càng thêm duyên dáng. Bà ta cứ nhấp nhỏm tại chỗ, nhún chân liên tiếp sốt ruột đợi người ta cho phép mình thưa lại. Cuối cùng, dịp ấy đã đến.
– Thưa ông tại uý, ở nhà tôi có đánh nhau ầm ĩ gì đâu – bà ta bỗng tuôn ra một tràng như trút đồ, giọng Đức rất nặng, tuy bà ta nói tiếng Nga liến láu – và khôông hề có chuyện gì pậy pạ cả, họ uống rượu ở tâu say khuốt rồi kéo tến, tôi xin kể hết tế ôông rõ. Ôông tại uý ạ tôi khôông có tội tìn gì, nhà tôi là nhà tử tế, thưa ôông tại uý, tều là chỗ tứng tắn cả, và pản thân tôi khôông pao giờ muốn có chuyện gì pậy pạ. Thế nhưng họ uống rượu say mèm rồi kéo tến, lại tôi thêm pa chai nữa, rồi một người dơ hai chân lên tênh duông cầm pằng chân, fào nhà tủ tế mà làm như ráy thật không tốt. Hắn tập fỡ cả tàn duông cầm, fà tôi có pảo hắn là như fậy khôông còn ra cái thế thôống gì nữa. Thế là hắn fơ lấy một chai rượu tánh vào tít mọi nguồi. Tôi pèn kọi ngay pác kác còông, Kan mới tến, thế là hắn cầm lấy Karl ténh dập con mắt, Henriet hắn cũng ténh dập con mắt, còn tôi thì hắn ténh cái má năm lần. Thua ôông tại uý, fào nhà tù tế mà làm như fậy thật là pất lật sự, thế tôi mới la lên. Hắn liền mở cửa sổ trôông ra kến tào và rôống lên the thé nhu con lộn con, thật là xấu hồ. Ai tời lại chõ mồm ra phố mà hét lên nhu con lộn con nhu thế pao giờ? Húi, húi, húi? Kan mới nắm lấy tuổi áo hắn mà kéo và quả tìn, thua ôông tại uý, có làm réch mất áo Rock. Thế rồi hắn la lên là phỉ tền cho hắn muồi lăm rúp. Thật là một nguồi khéch khôong tủ tế, thua ôông tại uý, làm tủ những trò pậy pạ! Hẳn pảo là sẽ fiết một pài páo tả kít ôông, páo nào hắn cũng quen, muốn fiết gì fề ôông thì fiết.
– Thế thì hắn là một nhà văn à?
– Thưa phải ạ, và thưa ỏông tại uý, fào nhà tủ tế mà như rậy thật ià pất lịt sự!
– Thôi, thôi, thôi! Đủ rồi! Ta đã nói với mụ, ta đã nói là…
– Ilya Petrovich! – viên chánh văn phòng lại nói, giọng đầy ý nghĩa. Viên trung uý liếc nhanh về phía hắn: hắn sẽ gật đầu.
– Đây thì thưa bà Laviza Ivanovna kính mến, đây là lời dặn cuối cùng của tôi, và lần nầy là lần cuối cùng đấy nhé, viên trung uý nói tiếp. – Nếu trong cái nhà tử tế của bà mà còn xảy ra chuyện bậy bạ như thế một lần nữa thôi, tôi sẽ cho bà nếm mùi nhà pha ngay, như trong giọng văn quý phải vẫn nói. Bà nghe ra chưa?
– Thế ra nhà văn kia đã lấy của cái “nhà tứ tế” ấy năm rúp tiền đền áo. Đấy, các nhà văn là thế đấy! – hắn vừa nói vừa ném một cái nhìn khinh bỉ về phía Raxkonikov. – Hôm kia trong một quán rượu còn xảy ra một chuyện như thế nầy nữa: có một lão vào ăn uống no nê rồi không muốn trả tiền; đòi thì lão nói: “Tôi sẽ cho lên báo một bài đả kích nhà người về việc nầy”. Trên tàu thuỷ tuần trước cũng có một lão nhà văn dùng đủ những danh từ tục tĩu thoá mạ vợ và con gái một ông tư vấn quốc gia đáng kính. Hôm trước người ta đã phải tống cổ một tên như thế ra khỏi cửa một hiệu bánh kẹo đấy. Đấy cái bọn nhà văn, nhà báo, sinh viên, cái bọn mồm loa mép giải ấy là như thế đấy… xì! Thôi mụ kia xéo đi! đi! Ta sẽ để ý theo dõi… liệu hồn. Nghe ra chưa?
Luyza Ivanovna đon đả nhún mình chào tứ phía, vừa chào vừa đi thụt lùi ra cửa, nhưng vừa đến cửa thì vấp lưng phải một viên sĩ quan đẹp trai có khuôn mặt cởi mở tươi tắn vôi bộ râu rậm tuyệt mỹ màu vàng óng. Đó chính là Nikodim Phomits, viên quận trưởng cảnh sát.
Luyza Ivanovna vội vàng cúi mình chào đến gần sát đất và nhún nhảy từng bước ngắn chạy vụt ra ngoài.
– Lại sấm sét, bão tố, cuồng phong? – Nikodim Phomits thân mật và ôn tồn nói với Ilya Petrovich – lại bị quấy rầy trêu tức, lại sôi sục lên rồi! Vừa vào đến cầu thang tôi đã nghe thấy tiếng.
– Biết làm thế nào được? – Ilya Petrovich nói, giọng lơ đãng một cách đài các, vừa nói vừa cầm mấy tệp giấy tờ đi sang bàn bên, cứ mỗi bước lại nhích vai lên một cái trông rất ngoạn mục.
– Đây, xin ngài thấy cho: ngài văn sĩ đây, – tức ngài sinh viên nầy, hay nói cho đúng hơn, là ngài cựu sinh viên nầy, không trả tiền, ký những tờ tín phiếu và không chịu cuốn gói ra khỏi nhà trọ, người ta gửi đơn kiện không ngớt ấy thế mà ngài lại còn có nhã ý khiếu nại là tôi đã dám hút thuốc trước mặt ngài! Ngài còn tỏ ra khiếm nhã gấp mấy, đây xin ngài đại uý thứ nhìn xem: dáng vẻ ngài đã hấp dẫn chưa!
– Nghèo không phải là xấu, anh bạn ạ, nhưng làm thế nào được! Ai cũng biết là thuốc súng không đời nào chịu để ai lăng nhục: Chắc ông lại có điều gì bực mình với trung uý và không tự kiềm chế được chứ gì – Nikodim Phomits ôn tồn nói tiếp với Raxkonikov, – nhưng ông làm như vậy là không phải: trung uý đây là một người hết sức cao quý, nhưng tính như thuốc súng, như thuốc súng! Cứ bùng lên, sôi lên, cháy phụt lên – rồi mất biến! Xong là hết! Rốt cục chỉ còn lại một tấm lòng vàng! Cho nên trong binh đoàn mới đặt cho ông ta cái biệt hiệu “trung uý thuốc súng”…
– Mà đây có phải là một binh đoàn thường đâu?
Ilya Petrovich thốt lên, rất hài lòng vì được mơn trớn dễ chịu như vậy, nhưng vẫn chưa nguôi hết cơn giận.
Raxkonikov bỗng thấy muốn nói với hắn một câu gì thật hoà nhã.
– Đại uý cứ thử nghĩ mà xem, – chàng quay về phía Nikodim Phomits mở đầu, giọng rất ung dung. – đại uý cứ thử đặt mình vào tình cảnh tôi xem… Tôi rất sẵn lòng xin lỗi ngài trung uý, nếu về phần tôi đã có gì sơ xuất đối với ngài. Tôi là một sinh viên nghèo và đau ốm, luôn bị cảnh túng bần giầy vò – chàng dùng đúng chữ “giầy vò”. – Tôi là cựu sinh viên, bởi vì hiện nay tôi không có cách gì sinh sống, nhưng tôi sẽ nhận được một số tiền… Tôi có người mẹ và người em gái ở trấn X… Họ sẽ gửi tiền cho tôi, và tôi sẽ trả. Bà chủ trọ của tôi là một người tốt, nhưng bà ấy thấy tôi mất chỗ dạy học và bốn tháng liền không trả được tiền trọ nên đã oán giận tôi đến nỗi thậm chí cũng không thèm dọn cho tôi ăn nữa… Và tôi không thể nào hiểu được cái tín phiếu ấy là thế nào. Bây giờ bà ấy căn cứ vào tờ tín phiếu ấy để bắt tôi trả tiền, ngài cứ thử nghĩ xem…
– Nhưng đó có phải việc chúng tôi đâu… – viên chánh văn phòng lại nói.
– Xin phép, xin phép ngài, tôi hoàn toàn đồng ý với ngài, nhưng cũng xin ngài cho phép tôi được giãi bày, – Raxkonikov lại tiếp, chàng không nói với viên chánh văn phòng mà vẫn chỉ nói với Nikodim Phomits, nhưng cũng cố hết sức quay về phía Ilya Petrovích mặc dầu hắn cứ một mực làm ra vẻ như đang cắm cúi xem đống giấy tờ, không thèm chú ý đến chàng, – về phần tôi tôi xin phép giãi bày rằng tôi trọ ở nhà bà ta đã hơn ba năm nay, mãi từ hồi tôi mới ở quê lên và trước tiên… trước tiên… vả chăng việc gì tôi lại không thú nhận rằng ngay từ đầu tôi đã có lời hứa là sẽ lấy con gái bà ta, một lời hứa miệng, hoàn toàn không có gì ràng buộc… Đó là một người con gái mà, dù sao tôi cũng có chút cảm tình với cô ta… tuy cũng chẳng phải yêu đương gì, nói tóm lại, tuổi trẻ, nghĩa là tôi muốn nói rằng hồi ấy bà chủ trọ đối với tôi rất rộng rãi về mặt tiền nong, và tôi sinh hoạt có phần… hồi ấy tôi nhẹ dạ lắm.
– Chúng tôi tuyệt nhiên không đòi hỏi những lời tâm sự như thế, thưa ngài, vả chăng cũng không có thì giờ, – Ilya Petrovích ngắt lời một cách thô lỗ, vẻ đắc thắng, nhưng Raxkonikov hăm hở cướp lời nói tiếp, tuy bây giờ chàng chợt thấy hết sức khó nói.
– Nhưng cứ xin các ngài cho phép tôi kể hết… mọi việc và về phần tôi… tuy cũng xin thừa nhận rằng kể như vậy là thừa. Nhưng cách đây một năm người con gái ấy chết vì bệnh thương hàn, còn tôi thì vẫn ở trọ như cũ, và khi dọn sang ở căn nhà hiện nay, bà chủ có nói với tôi, như chỗ thân tình… rằng bà hoàn toàn tin cậy ở tôi, nhưng giá tôi vui lòng viết cho bà một tờ tín phiếu một trăm mười lăm rúp tức tất cả số tiền mà bà coi là tôi còn nợ của bà, thì tốt hơn. Xin các ngài hiểu cho: chính bà ta nói rằng hễ tôi viết cho bà tờ giấy ấy, bà lại sẽ cho tôi nợ bao nhiêu cũng được và về phần bà sẽ không bao giờ, không bao giờ, – đó là nguyên văn lời bà, – dùng đến tờ giấy ấy, bà cứ để cho tôi tự ý trả dần… Thế mà bây giờ, đến khi tôi đã mất chỗ dạy học và không có gì ăn nữa, bà lại đem ra kiện tụng… Tôi còn biết nói thế nào được?
– Xin ngài vui lòng hiểu cho rằng tất cả những tình tiết lâm ly ấy đều không có dính dáng đến chúng tôi – Ilya Petrovích xấc xược cắt ngang – ngài phải ký giấy nhận nợ và giấy cam kết, còn như chuyện ngài có yêu đươngvhay không yêu đương, và những nỗi niềm bi đát của ngài, thì chúng tôi tuyệt nhiên không cần biết đến – Kìa sao anh… phũ phàng thế… – Nikodim Phomits vừa lẩm bẩm vừa ngồi vào bàn và cũng bắt đầu hí hoáy viết. Hắn tự dưng thấy ngường ngượng.
– Ông viết đi, – Viên chánh văn phòng nói với Raxkonikov.
– Viết gì? chàng đáp, giọng rất xẵng.
– Tôi sẽ đọc cho mà viết.
Raxkonikov có cảm giác viên chánh văn phòng đối xử với chàng có vẻ khinh thị hơn sau khi nghe những lời tâm sự vừa rồi, và lạ thay, chàng bỗng thấy mình hoàn toàn không còn thiết gì đến bất cứ quan niệm của ai đối với mình nữa; sự chuyển biến ấy diễn ra chỉ trong một nháy mắt. Ví thử chàng chịu suy nghĩ một chút, Raxkonikov dĩ nhiên sẽ lấy làm lạ rằng trước đấy một phút mình đã có thể nói như vậy và hơn nữa lại phô bầy cả tình cảm mình ra. Mà những tình cảm ấy thì lấy ở đâu ra? Bây giờ thì ngược lại, giả sử những người ngồi trong phòng nầy không phải là những tên cảnh binh mà là những người bạn thân nhất của chàng, thì chắc chàng cũng không tìm ra được lấy một lời chân tình để nói với họ: lòng chàng bỗng dưng thấy trống hoác ra. Chàng có ý thức rõ rệt rằng một cảm giác nặng nề, xót xa về nỗi cô đơn, lạc lõng không bờ bến của mình, bỗng nhiên đã tràn ngập tâm hồn chàng.
Tâm trạng chàng xoay ngược hẳn lại như vậy không phải vì chàng thấy rõ sự hèn hạ của những lời thổ lộ tâm tình trước Ilya Petrovích hay cái vẻ đắc chí hèn hạ của viên trung uý. Ô, bây giờ thì chàng còn thiết gì đến sự hèn hạ của bản thân, đến tất cả những trò ganh đua hiếu thắng, những thứ trung uý, đại uý, đĩ bợm, tín phiếu, kiện tụng, vân vân, vân vân. Giả sử bọn họ có ra lệnh đem chàng lên giàn hoả hành hình ngay lúc ấy thì hẳn chàng cũng không hề nhúc nhích, thậm chí còn nghe lời tuyên án ấy một cách lơ đãng nữa là khác.
Trong người chàng đang diễn ra một quá trình mới lạ, đột ngột, chưa từng thấy. Không phải chàng hiểu, mà chính là chàng có cảm giác hết sức rõ rệt rằng mình không còn có thể thổ lộ tâm tình như lúc nãy đã đành, nhưng cũng không thể nào nói bất cứ chuyện gì với những kẻ ngồi trong phòng giấy cảnh sát nầy, và dù họ có là anh em ruột thịt của chàng chăng nữa, thì chàng cũng tuyệt nhiên không lý gì phải đi nói chuyện với họ, dù trong trường hợp nào cũng vậy; kể cho đến phút nầy chàng chưa từng bao giờ có một cảm giác kỳ dị và khủng khiếp đến thế. Và xót xa hơn cả, đây lại là một cảm giác nhiều hơn là một ý thức, một khái niệm; một cảm giác trực tiếp, cái cảm giác đau đớn nhất mà chàng đã trải qua từ trước đến nay.
Viên chánh vãn phòng bắt đầu đọc cho chàng viết giấy nhận nợ theo công thức thường lệ, nghĩa là tôi chưa thể trả nợ được, tôi xin hứa đến ngày nọ ngày kia sẽ trả, tôi cam kết không ra khỏi thành phố, không đem tài sản đi bán, đi cho…
– Nhưng ông không đủ sức để viết nữa kìa, bút cứ tuột ra khỏi tay, – viên chánh văn phòng nói, mắt tò mò nhìn Raxkonikov. – Ông ốm à?
– Vâng… tôi thấy chóng mặt… Ông đọc tiếp đi!
– Thôi hết rồi, ông ký tên cho.
Viên chánh văn phòng cầm lấy tờ giấy và quay ra giái quyết các việc khác. Raxkonikov trá cây bút, nhưng đáng lẽ phải đứng dậy ra về, thì chàng lại chống khuỷu tay lên bàn và giơ hai tay lên ôm lấy đầu. Chàng có cảm giác như bị ai đóng đinh vào đinh sọ. Chàng bỗng nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: đứng ngay dậy, đến cạnh Nikodim Phomits và kể cho hắn nghe tất cả những việc đã xảy ra hôm qua, kể cặn kẽ cho đến từng chi tiết nhỏ nhặt, rồi đưa hắn về buồng mình và chỉ mớ đồ đạc giấu trong góc buồng, trong cái lỗ thủng. Ý muốn ấy mạnh đến nỗi chàng đã đứng dậy toan thi hành ngay. “Hay để nghĩ qua một chút đã. Không, tốt hơn hết là đừng nghĩ gì hết, nhắm mắt mà làm!” Nhưng chàng bỗng đứng đực ra như đóng dinh tại chỗ: Nikodim Phomits đang nói gì rất hăng với Ilya Petrovich, và chàng nghe loáng thoáng:
– Không thể được, phải thả cả hai ra. Thứ nhất là vì tất cả những việc ấy đầy rẫy những mâu thuẫn; anh thứ nghĩ xem: việc gì họ lại đi gọi người gác cổng, nếu chính họ là thủ phạm? Để tự tố giác mình hay sao? Hay là để đánh lạc hướng? Không phải, nếu thế thì quỷ quyệt quá chừng! Và cuối cùng là người gác cổng và một mụ lái buôn có trông thấy tên sinh viên Pextriakov ngay khi hắn vào: hắn đi với ba người bạn và chia tay với họ ngay ở cổng vào, rồi lại hỏi thăm chỗ ở ngay khi bọn kia còn đứng đấy. Chả nhẽ đi làm một việc như thế mà lại còn hòi chỗ ở? Còn như tên Koch thì trước khi đến nhà mụ già đã ngồi ở nhà lão thợ bạc ở tầng dưới đến nửa tiếng đồng hồ và đúng tám giờ kém mười lắm mới từ đó lên phòng mụ già ở trên gác. Bây giờ ông thử nghĩ xem…
– Nhưng khốn nỗì lời khai của họ có chỗ mâu thuẫn như sau: họ quả quyết rằng họ có đập cửa và cánh cửa đóng kín, thế mà ba phút sau, khi đi lên với người gác cổng, thì lại thấy cửa mở?
– Vấn đề là ở chỗ đó: chắc chắn hung thủ đang ở trong nhà và chốt cửa lại; và chắc chắn sẽ tìm thấy hắn ở đấy, nếu cái thằng cha Koch kia không dại dột bỏ xuống nhà tìm người gác cổng. Chính trong khoảng thời gian ấy hắn đã có đủ thì giờ xuống thang gác và làm thế nào lọt qua mắt họ. Lão Koch thì cứ làm dấu thánh lia lịa, lão nói: “Ví thử tôi đứng lại đấy thì hắn đã nhảy xổ ra bổ rìu vào đầu tôi mất rồi”. Hắn đang muốn làm lễ tạ ơn chúa đấy. Hê – hê – hê!
– Thế không ai trông thấy hung thủ à?
– Thì trông thấy thế nào được? Cái nhà ấy như cái vườn bách thú ấy mà, – viên chánh văn phòng, nãy giờ ở bàn lắng tai nghe, buông một lời nhận xét.
– Sự việc rõ lắm rồi, rõ lắm rồi! – Nikodim Phomits hăm hở nhắc đi nhắc lại.
– Không, sự việc chẳng rõ tý nào đâu, – Ilya Petrovich khẳng định.
Raxkonikov cầm lấy mũ và đi ra cửa, nhưng chàng không ra được đến cửa… Khi chàng tỉnh dậy thì thấy mình ngồi trên một chiếc ghế, bên phải có một người nào đang đứng đỡ chàng, bên trái có một người khác cầm một cái cốc màu vàng đựng đầy một chất nước gì vàng vàng, Nikodim Phomits thì đứng trước mặt chàng và đang nhìn chàng chòng chọc; chàng đứng dậy.
– Sao thế, ông ốm à? – Nikodim Phomits hỏi, giọng hơi xẵng.
– Khi ký giấy ông ấy cầm bút đã không nổi rồi,- viên chánh văn phòng vừar nhận xét vừa ngồi vào bàn và tiếp tục lục soạn giấy tờ.
– Ông ốm đã lâu chưa? – Ilya Petrovich cũng đang ngồi soạn giấy tờ ở bàn mình, quát chõ ra. Dĩ nhiên hắn cũng đã đến xem xét Raxkonikov khi chàng ngất đi nhưng đã lập tức lảng ra khi thấy chàng tỉnh dậy.
– Từ hôm qua… – Raxkonikov lắp bắp trả lời.
– Thế hôm qua ông có ra khỏi nhà không?
– Có!
– Trong khi đang ốm?
– Trong khi đang ốm!
– Lúc mấy giờ?
Hơn bảy giờ tối.
– Xin hỏi ông đi đâu như thế?
– Ra phố.
– Thật là gọn và rõ.
Raxkonikov trả lời rất xẵng, dằn từng tiếng một, mặt trắng nhợt như tờ giấy, hai con mắt đen nổi tia máu nhìn thẳng vào mặt Ilya Petrovich.
– Ông ấy đứng không vững nữa, thế mà anh… – Nikodim Phomits nhận xét.
– Không sao! – Ilya Petrovich nói, giọng nghe rất khác thường. Nikodim Phomits còn muốn nói thêm một câu gì nữa, nhưng sau khi đưa mắt về phía viên chánh văn phòng lúc bấy giờ cũng nhìn chàng không chớp, lại thôi. Ai nấy bỗng lặng thinh. Trong phòng im lặng một cách kỳ lạ.
– Thôi được – Ilya Petrovich kết luận, – Ông có thể về.
Raxkonikov đi ra. Chàng còn có đủ thì giờ nghe thấy tiếng bàn tán xôn xao nói lên khi chàng vừa ra khỏi cửa: nghe rõ nhất là giọng nói có ý dò hỏi của Nikodim Phomist… Ra đến phố chàng tình hẳn lại.
“Khám nhà, khám nhà, chúng sẽ khám nhà ngay bây giờ? – chàng tự nhủ trong khi rảo bước cho chóng về đến buồng, – quân kẻ cướp! Chúng nó nghi ngờ!”
Cảm giác lo sợ lúc nãy lại luồn vào khắp người chàng, từ đầu đến chân.