Một thời gian dài sau khi Phương đã dứt tình và ra đi hẳn, tối tối song song với ánh điện bên buồn Kiên, ngọn đèn bị bỏ quên trong phòng nàng vẫn thầm lặng sáng lên, sáng thâu đêm, âu sầu rọi qua khe cửa như là một niềm lãng quên không ngừng canh cánh. Nhiều bận đi từ ngoài phố về, nhác thấy làn ánh sáng của Phương còn vương lại ấy, Kiên giật mình. Nhất là những tối đã ngà ngà. Loạng choạng, anh dừng bước ở hanh lang trước cửa phòng nàng, gõ cửa. Gõ mãi, riết róng điên rồ. Vi say. Vì dở hơi. Vì đau buồn nặng như gang. Nỗi đau; còn hơn là một nỗi đau, át cả rượu, ngấm vào lòng, mãnh liệt và choáng ngợp, sâu thẳm như thể mọi sự xuất thần, như là một niềm cảm hứng. Từ nay thiếu vắng Phương. Hiện thực hàng ngày sẽ thừa ra. Anh sẽ mất hết mọi rung cảm với nhịp sống đời thường hiện nay. Chỉ còn có hồi tưởng là cơ sở cua nhận thức. Và nỗi đau buồn, và niềm nhớ thương sẽ biến thành ngọn nguồn của mơ mộng, đưa anh đạt tới những trải nghiệm tối tăm sâu thẳm nhất của trí tưởng tượng. Kể từ ngày Phương từ bỏ anh, hằng đêm Kiên mất ngủ vì những chuỗi dài giấc mơ kể lại chính cuộc đời anh nhưng bằng những lời kể kỳ lạ. Vô tận những đoạn đời khác biệt, so le nhau hàng năm trời đã đột nhiên hiện ra cùng một lúc, đan xen, lồng vào nhau trên cùng một thời điểm của hồi tưởng, tạo nên trong ký ức của Kiên những vùng không gian mới, những vùng quá khứ chưa từng có.
Tâm hồn anh trong đau khổ, dường như đã biến hình. Có vẻ như giờ đây anh lại một lần nữa bắt đầu yêu, một tình yêu mới, một tình yêu khác nữa với Phương nhưng lẫn trong những trang chưa từng được giở ra của dĩ vãng. Và một cuộc chiến tranh khác. Một thời buổi bão táp khác. Dưới một bầu trời khác của quá khứ. Hồi đó đã lâu lắm rồi… Một kỷ niệm thân yêu nhưng sao mà xa xôi và buồn.
Bấy giờ Kiên và Phương mới mười sáu tuổi, vừa học xong lớp chín. Năm một chín sáu tư. Kiên nhớ là tháng Tám, đầu tháng Tám… Đoàn trường Chu Văn An tổ chức cắm trại ở Đồ Sơn. Cả những học sinh chưa phải đoàn viên như Phương và Kiên cũng được tham gia.
Mấy hôm đầu thời tiết xấu. Biển động, và mưa suốt ngày. Nhưng rồi một chiều mây quang ra, trời bừng nắng. Cả bọn sung sướng rút khỏi khách sạn để ra dựng lều ngoài bãi biển. Những lều vải sặc sỡ như những cái nấm màu mọc dọc hàng phi lao. Tối đến đốt lửa trại liên hoan văn nghệ. Cảnh tượng thật vui. Đống lửa cất cao ngọn, soi rực một vùng bãi cát. Bia hơi, rượu mùi, tiếng phong cầm, tiếng ghi ta, đơn ca, rồi đồng ca “Biển cả mênh mông, sóng vỗ nhịp thân tàu…” Mọi người say sưa hát. Tiếng trò chuyện và tiếng ca tạo thành hòa âm ồn ào mềm mại bên cạnh bóng đen siêu phàm cô độc của biển. Đêm tới khi nào không hay. Mọi người lăn ra ngủ, chui vào lều hoặc là ngả mình ngủ ngay trên bãi. Bên đống lửa đã thu nhỏ và thấp ngọn xuống chỉ còn Kiên với Phương thức, ngồi cạnh nhau. Suốt tối, Phương không hát chỉ đệm dàn cho các bạn. Cũng rất ít trò chuyện nom có vẻ bồn chồn.
– Sao mà buồn thế – Kiên hỏi – có chuyện gì phải không?
– Biển làm sao ấy, sờ sợ thế nào. Kiên có nhận thấy không?
Biển phả vào bờ hơi thở mát lạnh và tinh khiết. Khơi xa ầm ì. Những vệt sóng bạc. Biển đêm khuya, tím đen và óng ánh, như một cơ thể hùng vĩ mang trên vai khối nặng huy hoàng của cả một trời sao cuối hè. Kiên ném thêm nắm cành khô vào lửa. Phương bật nhẹ dây đàn ghi ta, chậm rãi phác một giai điệu, song không hát. Có những bước chân thong thả, chắc nịch đang tiến tới. Một ngọn đèn pin rê rê. Mấy bóng đen dừng lại ở bờ phi lao. Một người tách ra, bước vào trong vòng sáng dập dờn màu đỏ nhạt của ngọn lửa.
– Tại sao không dập lửa đi hả? – Người đó dằn giọng.
– Dập à? Tại sao hả anh? – Kiên ngạc nhiên ngước nhìn khuôn mặt thô rắn, nghiêm nghị của người lính thủy cao lớn vai đeo súng trường – Bọn chúng em đốt lửa trại mà anh!
– Ném cát vào, dập đi!
– Nhưng sao ạ?
– Sao giăng gì? Đã có lệnh truyền từ đầu tối, không nghe gì cả à? Bao nhiêu thứ đèn lửa dọc bãi biển phải dập tắt hết. Lệnh thế đấy! Thi hành đi, đừng vặn vẹo. Cấm là cấm, lệnh quân sự.
– Thế có cấm hát không, anh ơi? – Phương hỏi xen vào.
Người lính nhìn Phương, nét mặt dịu đi. Anh hạ súng và ngồi xuống bên đống lửa.
– Không, hát thì ai cấm. Dù thế nào thì tiếng hát vẫn phải còn. Em sẽ hát kỷ niệm bọn anh một bài chứ?
Hai người nữa trong tổ tuần tra bước tới, ngồi xuống trong vòng ánh sáng, lặng lẽ nhìn Phương.
– Ôi em hỏi thế thôi chứ, có định hát đâu ạ – Phương nguẩy vai, cười, lắc đầu.
– Hát đi em! – Một anh lính thủy nói, giọng buồn buồn khang khác – hát để giã từ mà. Từ giã bọn anh. Từ giã biển. Ngày mai… Chẳng giấu các bạn làm gì: Chiến tranh rồi! Chiến tranh với Mỹ.
– Ơ đã chắc chắn đâu? Còn xa, còn trừu tượng lắm mà. Đừng hãi, em. Hát cho vui thôi mà.
– Vâng… Phương thì thào run rẩy, mặt tái đi.
Ngồi thẳng lên, áp nhẹ cây đàn vào lòng, Phương đưa những ngón tay thon thả lần lần chầm chậm lên phím. Sau một lát lặng im như để tự trấn tĩnh và để lựa những cảm xúc của lòng mình. Phương thở một hơi dài, ngẩng đầu lên. hất bỏ tấm khăn van choàng trên vai rồi cất tiếng hát. Bài ca ngay lập tức như xuyên một mũi tên vào tâm hồn người nghe. Kiên cảm thấy máu cuộn lên trong tim và lệ trào lên mắt. Bài ca
dường như sầu muộn nhưng dần dần dâng lên, lớn lên mãi tràn rộng ra như làn gió lộng thổi. “Trên thế giới này từ nay, ngọn gió phũ phàng nào sẽ thổi…”, Phương hát. Trong lời và nhất là trong giai điệu bài ca nghe chứa chất cả niềm say mê lẫn nỗi đau buồn trước thời cuộc. Những ước mơ nồng cháy và những tiên cảm đau xót. Trong giọng hát của Phương như đều đều hơi thở tâm hồn của một lớp thanh niên được sinh ra ở đời chỉ cốt dành cho cuộc chiến tranh bắt đầu từ ngày hôm ấy. Trên khuôn mặt nghiêm nghị của một trong ba người linh nước mắt nặng nề ứa ra dưới cặp lông mày nhíu lại. Chiến tranh! Chiến tranh! ấy chính là tiếng gầm của biển trong suốt đêm bốn rạng mồng năm tháng tám. Bãi cát dài hình vòng cung ầm ầm sóng xô. Đột ngột hai đốm lửa bay chéo ra từ cùng một điểm trên trời tách thành hai làn chớp biếc vụt sa xuống. Những người ngủ trong bãi cát và ngủ trong lều vải đã thức cả dậy tới quây quần bên đống lửa đã lụi. Tất cả đều im lặng. dường như cùng nín thở. Khi tiếng hát ngừng rồi mọi người vẫn như bất động. Phương buông đàn, đứng đậy, bước di, khuất vào trong đêm. Kiên lặng lẽ đi theo sau, men theo hàng phi lao. Dưới chân cát ẩm và lạnh. lập lòe những ngọn đèn xanh đom đóm. Phương dừng lại, tựa lưng vào thân cây, hai tay đưa về phía Kiên. Tối đen không thể trông thấy nhưng Kiên cảm nhận được cử chỉ đắm đuối lần đầu tiên ấy của một mối tình…
– Mãi mãi chúng mình sẽ không rời xa nhau chứ Kiên? Và khi chết cũng chết ở bên nhau nhé – Thầm thì Phương rủ rê.
Đêm ấy, tuồng như cứ chốc chốc lại có sao đổi ngôi. Màn sao như rơi rụng dần. Và về gần sáng một cơn dông kéo tới đen trời. Biển nặng nề sóng.
– Nhưng sao lại chết? Chiến tranh: Từ nay mới thật là sống!
– Thật là sống à… Có lẽ thế. Nhưng chỉ sợ chúng mình sẽ không kịp sống và yêu… Không kịp, đã mất hết!
Hai đứa dắt tay nhau, chạy theo hàng phi lao, trở về nơi cắm trại. Lều trại tan tác. Cát bay mù mịt. Những tấm chăn bị gió cuốn vơ đi. Dây căng lều bị giằng đứt. Các cọc néo bị nhổ bật cả lên. Mưa trút xuống bờ biển xám. Bắt đầu từ đêm ấy. dông tố đen ngòm một thời. Từ đêm ấy bắt đầu những sự kiện ghê gớm.
Mùa hè năm sau Kiên vào bộ đội. Mùa thu lên đường. Gọi là đi B dài, nhưng anh không ra đi một mình, mà với Phương. Đi nốt với nhau những cây số cuối cùng của mối tình đầu.
Từ bấy đến giờ, hai mươi mấy năm trời. Hồi ấy đất nước vẫn còn ở mé bờ bên kia của thời đại này. Bây giờ thì có thể nói là một đất nước khác rồi. Và Kiên, Kiên cũng đã trở thành một con người khác. Chỉ riêng Phương cô gái mắt nâu, long lanh bất tử, kiều mị và điên rồ của anh, thì dẫu bao nhiêu phong trần, dâu bể vẫn chẳng làm thay đổi được nàng. Bất chấp những núi non tội lỗi, bất chấp những tai tiếng xấu xa, những điều kinh khủng, mà từ nhiều năm nay đời đã gắn vào cho tên tuổi của nàng, với Kiên, Phương vĩnh viễn ở ngoài thời gian, vĩnh viễn trong trắng, vĩnh viễn tuổi thanh xuân.
Đêm ấy hơn hai mươi năm về trước, tàu qua Phủ Lý không dừng lại, thúc lên một hồi còi não nùng. Đường ray cong ngả về hướng biển. Như lạc trên đường trường vô định, đoàn tàu sầm sầm lao đi. Và chẳng những Phủ Lý mà hình như cả Nam Định cả Ninh Bình đều đã lùi lại phía sau.
– Càng thích! Có vẻ như lấy làm mừng vì đã lỡ bước Phương ôm lấy vai Kiên thì thầm – Càng lạc xa càng tốt. Xem thử bom rơi đạn nổ nó thế nào nào.
– Nhưng… làm thế nào quay ra? – Kiên ấp úng.
– Thì, Phương có định ra đâu. Cùng nhau và bên nhau. Ai cấm chúng mình!
Giờ đây khi mường tượng lại, Kiên vẫn có cảm giác rằng, cuộc hành trình liều mạng ấy là một câu chuyện được tưởng tượng ra bên lề ký ức chiến tranh của anh chứ không phải là một sự thật được nhớ lại. Dường như trước khi mở ra những trang nặng nề hiện thực đời lính, trí nhớ được phép hão huyền một lần chót.
Đêm ấy, tàu không dừng ở một ga lớn ga nhỏ nào chỉ đôi lần đỗ nhanh vài phút trong bóng đêm giữa đồng trống, vậy mà người từ đâu chẳng biết cứ lèn lên toa. Bộ đội, thanh mến xung phong tụt tạt, lạc ngũ và cả dân thường, dân buôn, cả bọn trộm cướp đường trường. Như là tàu chợ. Đèn pin quét, diêm thuốc bừa phứa. Mùi khói. Hơi người. Cái góc êm ái của Kiên và Phương cứ hẹp dần.
– Đồng Giao-ao-ao… rồi chưa đới-ới-ới – Một giọng rất thảm hú lên. Gió đêm lùa qua thành toa hống hoác.
Nhịp tàu xóc, dồi lắc dập dềnh.
– Đi đến chỗ chết mà phải đi đến là xa nhỉ, – Phương khẽ cười thì thầm. – Không ngủ nổi à, Phương?
– Buồn ngủ nhưng mà khó ngủ ghê cơ.
– Cố ngủ đi, ngày mai…
– Nhỡ không có ngày mai?
– Đừng nói thế… nhắm mắt lại, đếm từ một…
Một ngày mai chói chang tai họa đang kề tới, có lẽ thế. Song đêm tối còn trùng điệp, tàu vẫn chạy mải miết. Tiếng bánh xe rũa đều đều trên đường ray.
– Ừ Thì cùng đếm nhé. Hay là thôi… ta cùng mơ một giấc mơ, Kiên ạ.
– Mơ gì bây giờ?
– Mơ gì, Kiên thì thật. Thế mà cũng hỏi… Nằm dịch vào Kìa, chẳng ai thấy đâu…
Có lẽ là giấc ngủ êm ái nhất đời cũng là bình yên cuối cùng nên rất nhiều năm sau giấc ngủ đó vẫn còn thức trong tiềm thức Kiên.
Sau chiến tranh, từ mặt trận trở về trên chuyến tàu Thống Nhất đông chật lính giải ngũ, đêm cuối cùng của hành trình Kiên hầu như không ngủ. Bên cạnh, nằm cùng võng với anh là Hiền cô gái phế binh người Nam Định có đôi mắt to hiền hậu, u buồn cũng cả đêm không ngủ, thì thầm trò chuyện, về gần sáng mới thiếp đi. Tàu qua Thanh Hóa trong ánh bình minh. Gỡ mình khỏi vòng tay của Hiền, Kiên hơi nhổm lên trên võng, đưa mắt nhìn ra cửa sổ. Cảnh đường trường lươn lướt trôi qua như những cái chớp mắt, lặng lẽ điểm nhanh lại một điều gì hằng in trong ký ức. Đồng ruộng, gò đống, sương mù, các lũy tre làng những vườn dừa, ao chuôm, các triền đồi, những bãi sông… thưa thớt, mông lung, lành mạnh dưới bầu trời ban mai nhàn nhạt thâm thấp, mùa thu. Bất giác, Kiên nghe thấy trong câu chuyện sầu tẻ đơn diệu của các bánh xe hỏa giọng nói thì thào của giấc ngủ xưa. Gương mặt Hiền mờ đi. Hướng hành trình như ngược lại. Cái tuổi mười bảy hiện lên trong tiếng gió và tiếng bánh xe. Cái tuổi mười bảy, cái đêm hôm ấy…
Trong đêm ấy, trên đoàn tàu ấy, bên bờ tai họa và giữa cảnh rối ren, Kiên và Phương chắc chắn là hai kẻ quá giang liều chết nhất. Say sưa, mù quáng, phóng túng và cả tin, buông mình hoàn toàn theo ngẫu hứng, quấn chặt lấy nhau cả hai đều mê mẩn mịt mù trong mông mị êm đềm ngây dại. Trong vòng tay Kiên, Phương mềm mại cựa quậy, ngoan ngoãn duỗi mình ra hay cuộn mình lại, thoải mái, buông lơi, dại dột. Sung sướng, dễ chịu như đang ở trên cu-pê một toa khách hạng nhất, hai đứa lúc thì nằm áp má vào nhau, lúc nằm úp thìa, thanh thản, hài hòa và kỳ quặc, tách biệt khỏi trái đất. Sự ôm ấp động chạm gần gũi có thể đã có lúc kích lên trong Kiên một cảm giác bất chợt nào đó, nhưng cơn rạo rực như thể một lưỡi dao chỉ tuốt khỏi vỏ được nửa chừng đã bị chững lại, bối rối, dịu xuống, nhòa đi, lửng lơ.
– Kìa anh… Sợ gì… hãy…
Tiếng thì thầm của Phương như những hạt bụi lấp lánh trong khoảng không tối đen và thỉnh thoảng lọt được vào trong ký ức của Kiên.
– Hai đứa mình, Kiên ơi… Có thể đến khi chết đi vẫn còn trong trắng… Vậy mà chúng mình yêu nhau biết là ngần nào…
Áp mặt vào mình Phương, Kiên trôi qua nhiều giấc mơ. Những giấc mơ nối chuỗi, mịt mờ, triền miên vô định như là bản thân cuộc hành trình của hai đứa…
“Chiến tranh tình yêu của tôi!” – Kiên nghĩ.
– Máy bay!
– Bỏ mẹ rồi anh em ơi!
Rú lên. Hét. Ầm lên. Thất thanh. Đoàn tàu như hụt bước. Tấm màn nhung của giấc ngủ bị xé toang. Trời còn tối. Tàu còn đang chạy. Cả toa nháo nhào.
– A a a a!… – Cả toa nấc lên.
Một cái gì dó kinh khủng, rùng rợn rống lên làm cho không gian méo lệch, đổ giạt xuống. Kiên choáng váng, lật đật chồm xốc dậy, thần kinh toạc ra trong cảm giác đã đầu lìa khỏi cổ.
– Báo động – Một giọng nam cao gào lên tuyệt vọng, vô nghĩa – Dừng tàu lại-ại…
Máy bay lượn vòng, Tiếng động cơ phản lực khoan thủng thinh không. Kiên bị ép di vào góc rồi lại bị xô bật ra, bị đẩy dúi tới cửa toa. Một người va vào anh. Rồi một người nữa. Nỗi khiếp sợ lan đi rùng rùng. Bấn loạn, rối bời, hung dữ. Cửa toa rầm rầm mở rộng ra. Các guốc hãm rít lên nhưng tàu vẫn chưa dừng. Phát điên lên. người ta xô nhau: tuồn tuồn lao vào vực thẳm tối om ngoài tàu, gieo những tiếng hừ hự, huỳnh huỵch rất nặng xuống nền đường.
“Phương!” – “Kiên!”. Bây giờ anh mới sực nhớ tới Phương. Anh bám tay vào tấm ván bên mép cửa cố ghì mình lại. “Phương!”. Anh lại gào, giọng lạc đi, bị át đi trong tiếng máy bay sà sát sàn sạt. Các tăng-bông va rầm rầm. Đoàn tàu nghiến răng cố dừng lại. Kinh hoàng vì để lạc mất Phương, thất đảm vì động cơ phản lực quá rùng rợn. Kiên như bị xẻ đôi người.
“Kiên…!” – Tiếng thét bật lên từ mộc góc toa không phải từ góc ban nãy. Tiếng thét đứt nghẹn như thể bị vặn chéo đi. Không chắc đã là Phương. Không chắc là gọi tên anh. Kiên ngoắt đầu nhìn lui vào bóng tối phía sau. Đúng khoảnh khắc ấy, ở lưng trời bỗng bục ra những tiếng như tiếng mở nút chai. Một luồng thác trắng rợn người ào qua Kiên lùa vào cửa toa. Máy bay hú chói óc. Dưới ánh pháo sáng lòng toa như một cái nhà kho bị đảo tung. Mọi vật hiện lên rõ mồn một nhưng tái nhợt, ma quỷ như hình thù trong phim âm bản. Phương nằm sấp trên sàn, Kiên nhìn thấy thế, hai tay nàng chống xuống như đang cố nhổm dậy, mặt ngước lên, đôi mắt mở to dại đi trước làn ánh sáng vừa òa vào. Tóc nàng đổ xõa ra. Nhưng, Kiên ngây cứng toàn thân. Anh không hiểu. Anh không tin vào mắt mình. Bởi vì… miệng Phương, anh thấy đang bị một bàn tay to xù bịt chặt. Trong tiếng rú của máy bay bổ nhào, trong cảm giác một cái chết tan xương đang trực diện lao thẳng xuống, mất trí đi vì khiếp sợ, Kiên thậm chí không hiểu tại làm sao lại có một thân hình đen trũi kềnh càng nào đó đang nằm đổ ập lên người Phương như vậy, lại đang dùng tay bóp lấy mặt nàng như vậy, ý nghĩa của cảnh tượng thô bạo đó, anh chỉ kịp thấy là nó bất thường. Ngu xuẩn và đớn nhát, Kiên há hốc miệng ra định kêu mà chẳng biết là định kêu cái gì. Thình lình, một ánh chớp lóe lên làm cho các bóng người trước mắt Kiên vụt đen sì đi. Kinh hoàng, Kiên buông tay khỏi mép cửa sổ và có một cử chỉ như định ngồi thụp xuống.
Và chới với ngã ngửa, anh văng khỏi cửa toa. Lưng bị đập mạnh, người nảy lên, Kiên lăn lông lốc. Ngực đập phải một vật gì rất cứng, đau lịm, anh ngất đi. Nhưng còn Phương, còn Phương! – Ý nghĩ gào lên một cách muộn màng, lay anh, thúc anh, buộc anh phải tỉnh lại.
Ngực đau, miệng ứ đầy một cái gì âm ấm mằn mặn, Kiên nhổ và gắng hết sức bình sinh nhổm dậy. Ta-luy nền đường sắt cao và dốc. Kiên trượt ngã. Buồn nôn. Mắt hoa tít. Máu lại ứa ra ở mép. Trên nền đường sắt đoàn tàu như đã chết trong ánh rạng đông không một bóng người bỗng huýt vang một hồi còi. Kiên lảo đảo đứng dậy, mím môi, chật chà chật chưỡng, leo lên dốc. Phanh hơi nhả phì phì. Chật vật, Kiên đẩy hé cửa toa ra, định leo lên. Nhưng không phải toa này. Toa sau cũng không phải. Bối rối, ngó trước ngó sau, Kiên không nhận biết nổi toa nào là toa của mình và Phương.
Chợt, rầm một tiếng, tầu giật mạnh các nối toa, và rùng rùng chuyển bánh. Với hai đầu máy nó dấn tốc độ lên khá mau. Các toa lần lượt diễu qua. Tiếng bánh sắt rít xèo xèo như những vết bỏng. Cuối cùng Kiên đành nhảy lên bậc cửa của đầu máy hộ tống. Mấy người thợ máy quần áo dính đầy dầu mỡ, đen bóng, nhìn Kiên, không nói gì. Mặt họ cũng lấm lem, những cặp mắt trắng dã, lông mi bị tô viền rất đậm. Anh thợ trẻ sục mạnh xẻng vào đống than đá rồi gạt tấm che miệng lò, hất than vào bụng lửa rừng rực. Bác thợ cả giật còi, tiếng còi xé tai. Hơi nước trắng xóa nóng hổi tỏa ra… Một cái gì đó trong Kiên như thể chính linh hồn anh, rùng mình. Mọi thứ trước mắt run lên, quay tít và nảy chồm. Ngoài cảm giác bất lực, cảm giác kém cỏi, non yếu dện run người, trong lòng Kiên còn tấy lên một tình cảm chưa từng có trong cuộc đời bấy lâu hầu như vẫn hoàn toàn thơ dại, đó là nỗi đau!
Tái đi, nét mặt anh như thể bị phá ra, và tê dại, toàn thân anh cơ hồ muốn sụp xuống. Anh thợ trẻ buông vội xẻng, đỡ lấy Kiên và dìu anh ngồi xuống sàn. Anh ta quay ngược bao tay lại lau nhẹ dưới cằm Kiên. Trên cái bao tay cứng quèo đen nhẻm than, Kiên nhìn thấy máu mình.
– Can đảm lên cháu! – Người thợ già bảo Kiên – Đã ăn thua gì. Vừa rồi, mới chỉ là một tiếng huýt gió của chiến tranh thôi mà.
Trong sương mù, trời đã sáng. Điếng người, Kiên sực nhớ tới cái điều có lẽ đang xảy ra ở toa tàu phía trên kia. Chiến tranh trong phút chốc đã không còn là như anh vẫn tưởng. Nỗi đau đầu tiên trong đời lính, hầu như mơ hồ, hầu như không có thật, bám riết lấy Kiên. Chính là từ đấy, từ lúc bị giằng bật ra khỏi Phương, đời Kiên bắt đầu thực sự đẫm trong máu, trong thương đau, trong thất bại. Dẫu rằng, trong suốt mười năm sau đấy với khẩu tiểu hên trong tay, anh đã luôn luôn ở hàng đầu quân xung kích, cùng đồng đội từng bước kiên trì vượt qua ngàn dặm của cuộc kháng chiến lớn lao đầy những thăng trầm để đạt tới đỉnh cao thắng lợi, dẫu rằng đã từng được tắm mình trong hạnh phúc của thời thanh xuân giữa gió bão chiến trường với bao niềm đam mê choáng ngợp lòng người, tâm hồn Kiên ngay sau cảm nhận dầu tiên về tính chất hung tàn của đời sống thời chiến đã là một tâm hồn chết lặng đi, không thể ngóc đầu lên được nữa.
Thực ra thì trong chiến tranh Kiên được hưởng nhiều may mắn hơn là trong thời bình, bởi vì trong chiến tranh anh đã được sống, chiến đấu, trưởng thành lên bên những người đồng chí thật tốt. Tuy nhiên, giá của sự may mắn ấy là anh đã lần lượt mất hết những người bạn, người anh em, người đồng đội chí thiết nhất.
Họ bị giết ngay trước mắt Kiên hoặc là đã chết ngay trong vòng tay anh. Nhiều người đã chết để gỡ cho tính mạng Kiên. Nhiều người hy sinh bởi lỗi lầm của anh. Trong đêm đen của hồi tưởng, Kiên nhìn đăm đăm vào bóng tối như nhìn vào cõi âm và lần lượt thấy lại họ, những con người tuyệt vời, những con người xứng đáng hơn ai hết quyền được sống trên cõi dương này nhưng đã lẳng lặng chấp nhận quy luật đơn giản của chiến tranh: mình chết thì bạn mình sống! Vào buổi sáng của ngày 30-4, tức là vào những thời khắc cuối cùng của cuộc chiến, khi cùng phân đội thọc sâu của trung đoàn tấn công dãy lầu Lăng Cha Cả, đã có một giây Kiên chần chừ. Và một giây ấy của Kiên đã lấp bằng tính mệnh của Từ, người đội viên trinh sát cuối cùng còn cùng Kiên đánh được tới Sài Gòn. Kiên đã chần chừ khi từ khung cửa sổ hình vòm của tầng trệt tòa lầu vang lên những tràng súng máy mà lẽ ra phải câm bặt rồi sau nhiều trái M79 dọt vào phòng. Khứng lại và hơi né ngang, Kiên chậm bước trong một phần tích tắc không cảm thấy được. Nhưng, thế là Từ đã thoắt lên trước, áp tới khung cửa dành cho Kiên. Loạt đạn của tên lính không thể trúng Kiên được nữa, dù anh chỉ sau Từ có nửa bước chân. Dòng máu đặc sệt của Từ vọt tóe vào mặt Kiên thay cho một tiếng thét, thay cho một lời giục giã… Cũng gần giống như thế, trên tầng ba của Nha cảnh sát Buôn Ma Thuộc, Oanh đã che chắn cho Kiên khỏi hứng phải loạt đạn của kẻ bắn lén mặc váy mà hai người đã sơ ý để cho sống.
Cũng giống như Cừ đã nổ súng bắn chặn cả một trung đội địch cho nhóm trinh sát của Kiên thoát thân sau cú đột nhập không thành vào sở chỉ huy lữ dù ba trên đèo Phượng Hoàng. Cũng chính trong lần trinh sát không may ấy, sau khi đã mất Cừ, Kiên còn mất thêm Thịnh “nhớn” và Tâm.
Kiên nhớ, hôm ấy do bị truy đuổi ráo riết, phải chạy vòng vo nên sáng ra rồi ba người mới xuống được chân đèo phía bên Khánh Dương. Kiệt sức, ba đứa nghỉ lấy hơi dưới lòng một con mương xói giữa rừng le. Tâm xé áo ra băng vết thương trên đầu Thịnh.
Kiên ngồi tựa vào vách đất, gục mặt xuống đầu gối. Rã rời anh kéo khẩu tiểu liên ra khỏi vai để nằm lên sỏi. Địch ở trên đèo và quân ta ở Khánh Dương đang đấu pháo. Không khí rung lên những tiếng nổ, rộ lên những tràng súng máy và cuồn cuộn những cột lửa, nhưng ở rừng le nằm giữa hai chiến tuyến này có vẻ khá yên.
– Trung đội, thế là còn không đầy một mâm! – Kiên rên rỉ.
– Buồn làm đếch gì. Kiên! – Tâm nói – Hẵng cứ biết là cánh mình gặp may… Thoát được thế này nghĩ thật khó tin…
– Thì cũng nhờ Cừ… may cái nỗi gì…
Đất bỗng lở xuống rào rào. một bóng đen hắt xuống lòng khe. Kiên ngạc nhiên ngó lên. Giật bắn mình: một thằng dù!
– Đứng dậy!
Ba phát đạn nảy tung đất ngay sát bàn tay Kiên khi anh định chộp lấy khẩu AK. Tên dù đứng choãi chân trên bờ, cười nụ, nhìn họ. Cầm cập run lên, Kiên đứng dậy. Mắt anh không thể rời khỏi cái họng đen ngòm của khẩu AR15 đang chĩa thắng vào ngực mình. Tâm và Thịnh cũng từ từ nhấc người dậy, tay đưa lên. Ba khẩu AK nằm lỏng chỏng dưới chân. Tên dù cao lớn, trẻ trung, tóc dài cợp, mũ nồi đỏ dắt ở cầu vai, hai tay áo xắn cao, bộ quân phục loang lổ bám bụi đất đỏ quạch. Hắn mỉm cười, đưa đưa mũi súng, ngón tay trỏ khuýp trong vòng cò. Kiên đứng ngây người, chết lặng, chờ những viên đạn sắp phá tan lồng ngực chẻ nát xương cốt và khoan thủng lưng cho máu anh phụt ra. Trống ngực nện thùm thùm: cổ nghẹn ngào co giật làm đầu anh lắc lư một cách thảm hại.
– Đừng bắn. ông…! Tôi… chúng tôi xin hàng! – Tâm rên rỉ. Tên ngụy thích chí bật cười. Hắn đưa ngón tay ngoặc ngoặc:
– Lên đây! Lẹ lên! Đù cha tụi bây… hề hề… Ba thằng lận.
Ba người lập cập, hu ríu xô vào nhau, sợ hãi, ngoan ngoãn.
– Lẹ lên! – Tên ngụy gầm gừ.
– Ngay bây giờ. Ngay bây giờ đây! Đừng bắn…! – Tâm hớt hải nói và chen vượt lên trước Kiên.
Khi leo gần tới bờ khe, thình lình Tâm xoài người tới, túm lấy chân tên lính dù lực lưỡng, giật thật lực.
Một tràng “cực nhanh!’ cướp cò bắn rét lên trời. Tâm và tên địch cùng lộn nhào xuống lòng con mương xói.
– Chạy… Thịnh, Kiên! Chạy đi…!
Lý ra phải cưỡng lại tiếng thét thất thanh ấy của Tâm và nhảy xuống hợp lực hạ thủ tên địch và cầm lấy vũ khí thì Kiên lại nhún người vọt lên bờ khe. Nhác thấy một toán áo rằn đang rẽ rừng đổ xô tới, Kiên và sát sau anh là Thịnh ”nhớn” lập tức vùng chạy thục mạng dọc theo bờ mương xói. Năm, sáu họng tiểu liên bắn rê theo. Kiên rạp lưng xuống, chạy dịch dắc. Đạn cày bên trái, bên phải. bấm sát gót, lia rát ràn rát
mang tai, đỉnh dầu.
– Ối – Thịnh hộc một tiếng, nhảy dựng lên húc đầu vào không khí, vật sấp. Kiên lượn ngoằn ngoèo, mất hút sau các lùm bụi ken dày. Bọn dù nã cối cá nhân truy theo nhưng chệch hẳn hướng chạy của anh.
– Thoát chết! Thoát chết! Thoát chết rồi-ồi-ồi…! – Mất trí đi vì sợ, vì đau đớn và bại hoại tinh thần, Kiên đâm đầu chạy cho đến lúc quỵ liệt, ngã khuỵu gối. Nhưng từ đấy ý thức của anh vẫn không ngừng thổn thức rền rĩ lên nỗi vui mừng xấu xa gần như là một sự hài lòng hiểm độc vì rằng rốt cuộc mình vẫn là còn sống, còn sống…
Tuy nhiên, kỷ niệm bi thảm, thương tâm và hiểm nghèo nhất trong ký ức chiến tranh của Kiên dĩ nhiên là kỷ mềm về Hòa.
Bấy giờ là thời kỳ bất hạnh, vô cùng cay đắng trong thoái trào của tấn công Mậu Thân. Những ngày ấy, trước mắt những người lính thường như Kiên ngay cả trời cao cũng đã thành ngõ cụt. Rút lui, ôm đầu máu, khiêng cõng nhau, lê lết luồn rừng, chạy về phía Tây. Trong không đầy nửa tháng mùa khô, hai lần bị bao vây, hai lần liều mạng mở đường máu, đơn vị Kiên tan nát, vụn ra từng tốp, vừa đánh vừa chạy. Kiên cùng ba chiến sĩ nữa trong đại đội hợp thành một nhóm vượt qua sông Pô-cô, rồi lách ngang vùng Đồi Đen bị B52 chần ra bột, nhằm hướng mặt trời lặn mà tháo thân. Ngang qua vùng rừng trũng dưới chân Ngọc Bơ Rây bọn anh gặp một đoàn chừng hai chục cáng thương đang trên đường lánh sang đất Miên, bên kia sông Sa Thầy. Đã gặp thì phải nhập vào với họ chứ thực tình Kiên chẳng muốn chút nào. Lực lượng này đã quá tơi tả. Đạn dược thiếu, lương thực cần nhẵn. Sức cùng lực kiệt. Và mặc dù họ có một giao liên dẫn đường nhưng lại là nữ giao liên, mà gái Bắc chứ không phải gái Thượng.
Tứ bề toàn lính Mỹ, khắp các góc rừng họ đều có thể đụng phải chúng hoặc gặp dấu vết chúng vừa đi ngang. Ở các nguồn nước còn sót lại trong các vạt rừng trơ trụi và xác xơ của mùa khô đểu có nguy cơ sa vào phục kích. Bom pháo tơi bời, và trực thăng. Và thám báo hoành hành. Sau những cuộc chạm súng bất ngờ thương binh đông lên mà tải thương ít dần. Bây giờ cứ phải ba người khiêng hai cáng. Thế mà trầy trật, rồng rắn mãi vẫn chưa nghe thấy tiếng Sa Thầy reo, vẫn cứ quẩn quanh dưới Ngọc Bơ Rây. Kiên tỏ ý ngờ là đã lạc lối song Hòa, cô giao liên một mực quả quyết là không thể đi sai đường được. Không có bản đồ, không có địa bàn nên Kiên cũng đành nhắm mắt phó mặc hướng hành trình cho cô gái. Nhưng tới buổi sáng của ngày đường thứ ba thì tình hình trở nên tuyệt vọng: đáng lẽ là bờ Đông Sa Thầy thì trước mặt họ trải rộng ra một đầm lầy không thể có cách nào vượt qua.
– Chết rồi – Hòa buột thốt lên – Hồ Cá Sấu!
Kiên đứng lặng trên bờ cỏ ở mép hồ nhìn làn hơi thối hoắc bốc lên, quánh lại, dập dờn phủ lên các vạt lau lách. Đây đó mấy con cá sấu giương nhũng cặp mắt không mi thao láo trên váng nước xanh lè.
– HỒ Cá Sấu à? Thì ra cái hố hôi thối này là nơi cô muốn đưa chúng tôi đến để vãn cảnh phải không? – Kiên hất hàm hói: giọng khản đặc, hung dữ.
– Em có lỗi! – Hòa cúi mặt xuống, nói nhỏ.
– Không phải lỗi lầm mà là một tội ác! – Kiên tàn nhẫn dằn giọng – Cần phải xử bắn cô. Hiểu chưa! Nhưng vì đạn chẳng còn nhiều…
Hòa ngẩng lên, cặp mắt to rân rấn lệ, môi run run nói:
– Tôi sẽ chuộc tội, tôi xin chuộc tội này… Tôi sẽ tìm thấy đường…
– Cô sẽ cho anh em thương binh tắm bùn chứ?
– Không. Hồ Cá Sấu. nghĩa là cũng rất gần bờ sông… Đồng chí cứ để tôi đi lần lại đường. Sẽ tìm thấy ngay thôi… Giờ thì ta tạm lui về ẩn dưới cái khe cạn vừa vượt qua khi nãy. Cho tôi thời gian xác định lại lối ra bờ sông. Rồi đến lối sẽ hành quân tiếp.
L-19 lượn vòng rất thấp trên mái rừng. Đạn pháo như tiếng nấc nghẹn chụp xuống một loạt ở bên kia hồ. Rồi một loạt nữa. Một loạt nữa cấp tập. Mặt đất xóc lên. Sóng nổi làm mặt hồ buồn thảm phù nề nhăn nhúm lại.
– Tôi sẽ chuộc lỗi các đồng chí ạ – Hòa nhắc lại, nôn nóng – Ngay bây giờ tôi sẽ… Nhưng ta cần đưa thương binh về náu dưới khe.
Không tin tưởng Hòa, không muốn nghe theo cô nhưng Kiên thấy chẳng còn cách nào khác. Mấy chục người, cả thương binh cả tải thương, đều đã kiệt quệ. Tất cả đều là những thân hình rách rưới, sạm đen, đầy thương tích; rộc rạc vì đói khát, lả di vì cực nhọc sau bao nhiêu ngày liên miên xuyên rừng.
Họ rút khỏi bờ hồ, lùi về cái khe cạn lổng chổng đá hộc ở góc rừng tre gai khô xác. Buổi xế trưa nắng chói chang, lòng rừng hầm hập hơi nóng. Nhưng yên ắng lạ lùng, đáng sợ và khó hiểu. Không nghe thấy đại bác nã. Không có tiếng rú rít của trực thăng. Chỉ còn vẳng lại tiếng súng trường lẻ loi ở đâu đó và tiếng lép bép từ những đám cháy bên kia khu rừng. Tiếng thương binh rên rỉ vì đau đớn và vì khát. Không khí nóng hổi đè lên gáy. Một vòm trời dường như mặn chát. Nóng, ngột ngạt và khát. Kiên cau có sẵng giọng bảo Hòa:
– Gần hay xa gì thì trước tối nay đồng chí phải tìm được đường tới bờ sông. Nếu không thì… Có hiểu không?
– Hiểu ạ. Em xin đi ngay bây giờ đây.
Kiên kéo khẩu AK ra khỏi vai đặt vào lòng một lính tải thương đang ngồi co ro dưới đất, rồi nói với Hòa:
– Khẩu AK của đồng chí cũng để lại cho anh em phòng khi bọn Mỹ ập đến. Đạn gần hết cả rồi. Tôi, quả lựu đạn này là đủ. Còn đồng chí thì súng ngắn đây cầm lấy! Còn bốn viên đạn đấy.
Kiên rút khẩu K59 cồm cộm trong túi quần ra đưa cho Hòa:
– Phải tránh giao chiến! Nhiệm vụ của tôi và đồng chí là tìm lối thoát chứ không phải là bắn nhau, hiểu chưa?
Hòa để tiểu liên lại, cầm lấy súng lục. Cô nhìn Kiên, ngập ngừng nói:
– Cứ để em đi một mình cũng được… Anh nên nghỉ cho lại sức.
– Không, tôi sẽ cùng đi với đồng chí.
– Em cam đoan sẽ tìm ra đường mà. Hay anh không tin em?
– Tôi không tin – Kiên chau mày – Tôi không biết là có thể tin cậy đến mức nào vào những lời nói, dù là lời cam đoan. Tôi chỉ tin vào những điều tôi trông thấy. Với lại, đây là tính mạng của thương binh. Tôi và đồng chí có nhiệm vụ phải thực hiện là: Bằng mọi giá phải tìm được đường ra sông. Đấy, tôi biết như thế thôi.
– Em hiểu! – Hòa thở dài buồn bã và cụp mắt xuống.
Hai người quay về dải rừng trũng ở ven hồ Cá Sấu để định lại hướng. Họ đi qua một tảng đá hình đầu người nổi lên giữa một cái tràng mọc đầy những cây bổi thấp lè tè.
– Đúng rồi, đi phía này! – Hòa nói và trỏ một bìa rừng thẫm đen bất động như một bức tường đá.
– Có đúng không? Kiên ngờ vực.
– Xin anh cứ tâm niệm cho em cái khối đá thằng người này – Hòa quả quyết – sắp tới đường giao liên rồi.
Họ đi chệch lên hướng Tây-bắc và tìm thấy dấu một đường giao hên đã bỏ hóa luồn dưới đáy những lạch suối đã tắt ngấm mạch nước. Vừa chạm vào đường giao liên đã có thể cảm thấy hơi hướng của dòng sông. Rừng có vẻ xanh tươi hơn. Không khí như có chút hơi mát. Từ đây Hòa có vẻ chắc chắn là mình không lạc đường nữa. CÔ dẫn Kiên di chuyển một cách tự tin qua các vùng ánh sáng và bóng tối, vùng khô chát và ẩm ướt, vùng nồng nặc hơi thở rữa nát của nhưng hố lầy lớn nhỏ và vùng ngào ngạt hương thơm của các tráng cỏ đỏ ối những hoa là hoa. Đườg giao liên không rõ nét dưới những thảm cỏ đã hóa mùn. đôi lúc lặn mất tăm. Nhưng dòng trôi trầm trầm của Sa Thầm mỗi lúc một rõ. Hai người đi ngang qua một nương sắn đã bỏ hoang lút cỏ dại và dừng lại trước một con đường dốc có xẻ bật dẫn xuống một vực sâu màu lục.
– Dòng sông! – Hòa nói, tươi hẳn nét mặt lên nhìn Kiên.
Giữa lòng thung sâu. Sa Thầy hiện lên thấp thoáng dưới mái rừng. Mặt nước sáng bạc lấp lánh ánh nắng phản chiếu không ngừng uốn lượn và gấp khúc. Dòng sông cất giọng thì thầm: trầm và sâu, thấp hơn tiếng cây cối thì thào một âm bậc.
– Không cần phải xuống tận nơi đâu, anh ạ. Đường thế là rõ rồi. Ta về đưa mọi người đi ngay thôi. Về tới khe cạn chắc cũng vừa tối.
– Ừ. Nhưng ngồi nghỉ một lát đã.
– Vâng. Em cũng hết cả hơi rồi.
Họ ngồi xuống cạnh nhau trên đỉnh dốc. Dưới xa dòng sông. Mãi tới lúc này Kiên mới nhìn Hòa. Anh muốn khen ngợi cô, muốn xin lỗi vì đã nặng lời nhưng không biết nên nói thế nào.
– Anh hút thuốc không?
– Đào đâu ra mà hút?
– Em có một điếu đây. Nhặt được khi nãy ở ngoài tràng ấy anh không để ý à? Một bao Salem nhưng còn được một điếu.
Cô moi trong túi ra một điếu thuốc, bật bật lửa và rít một vài hơi cho đầu điếu thuốc đỏ rực rồi đưa cho Kiên.
– Nghĩa là bọn Mỹ không xa đây – Kiên thở khói trầm ngâm
– Cũng chưa chắc. Có khi lính mình hút. Nhưng đúng ra em và anh nên mang theo một AK.
– Ừ nhưng tôi lo khi ta đi vắng bọn Mỹ sục tới. Anh em thương binh chỉ còn cách bắn trả chứ chạy đi đâu dược nữa. Mà đạn thì cạn cả rồi… Không mang khí giới, tôi với Hòa càng phải thận trọng hơn để tránh chạm địch. Nhiệm vụ của chúng mình là êm thấm đưa được cả đoàn sang bên kia sông. Hiểu không?
Hòa gật đầu và đưa tay ra xin điếu thuốc. Kiên đưa điếu thuốc vào tận môi cô.
– Hòa hút thuốc à?
– Không. nhưng hút với anh cho vui. Với lại chẳng hiểu sao cứ bứt rứt hồi hộp thế nào ấy.
– Hòa chiến đấu lâu chưa?
– Em vào B năm 66. Hai năm rồi, nhưng chủ yếu ở dưới cánh trung. Vùng này em không thạo lắm. Mà cũng chưa bao giờ phải trải qua tình cảnh khó khăn như lần này. Cảnh này có lẽ còn kéo dài anh nhỉ?
– Khó khăn chung của toàn chiến trường. Có thể chỉ mới bắt đầu.
Xa xa đại bác âm ỉ. Đâu đó phành phành tiếng trực thăng.
– Anh nhớ đường cho chắc nhé – Hòa bỗng nói.
– Ừ. Nhưng Hòa còn nhớ chắc hơn chứ.
– Vâng. Nhưng mà nhỡ ra em lại mắc lỗi gì, anh tử hình em thì sao?
– A, nhắc gì chuyện dó nữa, Hòa! Nóng giận lên ấy mà. Kể gì.
– Không, em biết tội em chứ. Những lúc sợ lên em hay quên mất lối. Với lại cảnh rừng thường làm em lú lẫn. Vì em quê miền biển, quê Hải Hậu. Thế mà lại làm giao liên đường rừng thì anh bảo… Lúc nãy lúc cùng anh rời khỏi khe em hãi lắm; không dám thú nhận là đã quên tiệt đường đi lối lại. May sao mà chạm được cái khối đá hình thằng người là vật chuẩn để nhớ em mới lại hồn mà định hướng được.
– Hồi đi B Hòa bao nhiêu tuổi?
– Mười tám. Hai năm rồi, thế mà vẫn chưa sao quen được.
– Ai mà có thể quen nổi, – Kiên thở dài, dụi điếu thuốc xuống đất rồi bảo:
– Bây giờ Hòa ở lại đây chờ. Mình mình quay lại đón mọi người thôi. Hòa ngồi chờ ở đây, tranh thủ mà nghỉ đi. Đường còn xa, còn vất vả lắm.
– Không. Sao lại thế. Em là giao liên cơ mà. Với lại ngồi một mình thế này em kinh lắm. Và, em muốn đi với anh, Kiên ạ!
– Thế thì ta đi đi – Kiên nói khẽ và quàng tay ôm lấy vai Hòa. Trìu mến dịu hiền Hòa từ từ ngả đầu vào vai anh. Họ ngồi tựa vào nhau như thế một lúc nữa, một lúc lâu. Tiếng ù ù của chiếc AD6 bay tuần tra triền sông kéo họ ra khỏi thoáng êm đềm. Miễn cưỡng Kiên đỡ Hòa đứng dậy. Trên đường về cả hai đều rảo bước. Bóng của họ ngả dài. Trên rặng Ngọc Bơ Rây ánh tà nhuộm đỏ các đỉnh núi. Cảnh rừng trong bóng chiều im lặng nặng nề. Một nỗi căng thẳng khó chịu cứa vào tâm trạng hai người. Họ đi mau. không trò chuyện.
Tiếng gió lào xào và tiếng cành khô gãy. Một con rắn hổ mang lướt nhanh qua lối mòn. Gió từ mạn hồ Cá Sấu thổi tới mùi bùn nồng nặc. Chỉ còn một đoạn mười phút nữa là về tới khe cạn chỗ anh em thương binh đang đợi. Họ đã vượt qua tảng đá hình đầu người và bắt đầu đi vào rừng tre gai. Chim chóc từ rừng bay ra gặp hơi nóng ngoài trảng liền bay lộn vào kêu inh ỏi. Mới đi qua mấy lùm tre chằng chịt ở bìa rừng Kiên sững lại. Nghẽn trong cổ họng một tiếng kêu. Kiên tái mặt kéo Hòa ngồi thụp xuống. Bọn Mỹ!
Chẳng hiểu sao chỉ cách vài bước chân. vướng một lùm cây mà bọn địch không kịp phát hiện ra Kiên và Hòa. Chúng cũng vừa tiến vào khu rừng này nhưng theo một hướng khác, cắt một góc hẹp với hướng đi của hai người. Chỉ chậm một loáng nữa thôi thì họ đã chạm phải tên Mỹ đi đầu. Thực ra Kiên trông thấy trước tiên là con chó. Con vật nhô ra khỏi lùm tre ken dày như bức tường phía tay trái anh cách qua một bãi cỏ hẹp. Con vật to tày con bê, lông xám với những đốm vá bên sườn. Cái mũi rất thính lia trên mặt đất, con béc-giê thong thả chạy chếch lên phía lùm cây trước mặt Kiên. Tên Mỹ đi đầu xuất hiện ngay sau con chó là một tên lính da đen mặc áo giáp, đầu đội sắt bọc lưới, chân dận bốt đờ xô, tay nắm dầu sợi dây da dài bị con chó săn kéo căng ra. Theo sau hắn, cũng một tên da đen, cởi trần, những băng đạn vắt kín đôi vai lực lưỡng. Rồi tên thứ ba, tóc vàng hoe, cũng gần như trần truồng, to cao, khỏe như vâm, tiểu liên lăm lăm trong tay. Tên thứ tư… Kiên thấy loáng thoáng bóng những tên khác sau lùm tre, không rõ có bao nhiêu tên. Chúng tiến hàng dọc, giãn cách thưa, cao lớn âm thầm, bước mau nhưng rất nhẹ chân, gần như không có tiếng động, dáng dấp tàn ác và gian manh của những con sói.
Con chó béc’giê to lớn dừng lại ở bụi cây phía trước Kiên hít hít một vật gì đó. Tên quản chó bước tới đưa mũi súng khều vật ấy lên. Co rúm người lại, mắt mở trừng trừng, Kiên nhận ra ở mũi khẩu M 16 một dải băng trắng. Kiên xiết chát quả lựu đạn, lòng tê bại, thấp thỏm. Miễn sao con chó không bắt được hơi của anh và Hòa, miễn sao những thằng Mỹ không nảy ra ý định lục soát xung quanh đây, Kiên run rẩy nghĩ, nhưng anh không hề thoáng nghĩ rằng bọn lính đang lần theo dấu vết của đoàn tải thương để lại trên đường di chuyển từ hồ Cá Sấu về khe cạn. Thậm chí anh không để ý rằng, Hòa đã lẳng lặng trườn xa chỗ anh nấp. Những tên Mỹ còn khuất trong lùm tre phía bên trái cất tiếng làu nhàu. Chắc là chúng chửi rủa. Tên quản chó giật giật sợi dây da. Con chó lại dí mũi xuống sát đất ngoắt ngoắt đuôi, nhanh nhẹn chạy chếch lên phía trước theo hướng mục tiêu mà nó bắt được trong thính giác. Kiên kín đáo thở phào. Đúng giây lát đó, thình lình vang lên một phát súng lục Tiếng súng ngắn nhưng làm bầu không khí lặng phắc của rừng chiều giật nảy lên. Con chó săn hộc một tiếng kêu đau đớn. Bọn Mỹ phản ứng cực nhanh, nằm rạp xuống và lăn tản ra. Tên quản chó buông sợi dây da. Phát K59 thứ hai vang lên. Bây giờ Kiên mới kịp hiểu là Hòa đã bắn, anh choáng hồn. Con chó có lẽ đã trúng đạn nhưng nó hăng lên, hung dữ như cọp, hú lên, rẽ ngang lao dạt tới nơi phát ra tiếng súng. Sau một ụ mối chếch bên tay mặt Kiên chừng chục bước chân, Hòa nhô hẳn người lên. Mặt trời xuống thấp lùa ánh sáng qua cửa rừng. Những làn ánh sáng cuối cùng trong ngày, đỏ thẫm như máu. Hòa đứng hơi nghiêng trước nắng tà nên thân hình mảnh mai nổi lên đậm nét với những đường cong sẫm tối và những vệt da bắt sáng. Mái tóc xõa trên vai. Cái cổ cao yếu ớt, áo cộc, quần đùi, đôi chân trần dầy vết gai cào. Con chó lao xộc tới. tung mình chồm lên, hứng gọn hai phát đạn, bật lộn ra sau như bị đá thốc vào ngực. Tất cả diễn ra trong chớp mắt. Hòa quăng khẩu súng hết đạn về phía bọn Mỹ đang chồm dậy, và xoay người chạy lao ra khỏi rừng băng vào trong trảng. Bọn Mỹ không bắn, rầm rập đuổi theo. Tên xông qua gần chỗ Kiên nhất đế giày như suýt đạp vào tay anh. Chừng hơn chục tên, phần đa là Mỹ da đen, nhanh nhẹn và cực khỏe. Chúng lao như gió. Có lẽ ngay lập tức đã đuổi kịp Hòa. Chúng reo ồ lên. Tuy nhiên hướng chạy của Hòa kéo chúng ra xa Kiên, đồng thời cũng hút chúng lệch khỏi vệt đường có thể dẫn tới khe cạn.
Trườn theo các lùm cây, Kiên men tới cửa rừng và len lén anh nhổm lên, quỳ một chân, nhìn ra trảng. Quả lựu đạn đã rút chốt như chỉ chực rớt ngay xuống chân Kiên. Tay anh lạnh ngắt, các ngón run và toàn thân anh tròng trành, đầu óc chao đưa hầu như không còn tự chủ được nữa. Ngợp trước mắt anh. Ở ngoài tráng, trên đám những cây bổi bị giẫm nát ngay sát tảng đá rêu mốc chơ vơ hình đầu người, kín nghịt một đống kinh khủng đen ngòm, lấp loáng mồ hôi và phì phò hơi thở rốc. Không nghe thấy tiếng Hòa kêu, nhưng mà có thể cảm thấy tiếng kêu ấy.
Bọn Mỹ dồn cục lại. nhưng chỉ có vài tên còn dang đứng và đều xây lưng lại phía Kiên. Chúng không hò hét, không rống cười. không quát tháo. Sự thể ghê rợn bày ra: quằn quại trong yên tĩnh man rợ. Chỉ trong tầm ba chục thước không hơn, Kiên đủ sức “cả cái” trái cầu thép này vào giữa đám, quét đi ít nhất là non nửa số Mỹ đang chất đống. Nhưng nín lặng, gần như nín cả thở nữa, Kiên cứ như thế quỳ mãi, náu kín mình sau lùm cây ở bìa rừng. Đã đến lúc phải cắt ngang cận cảnh dã man này, phải đánh dấu chấm hết lên đầu bọn khỉ đột, song cái dấu chấm hết ấy vẫn bị giữ lại khư khư trong lòng bàn tay Kiên. Hoàng hôn trùm lấp anh. Sương mù dâng cuồn cuộn và muỗi đàn đàn bu tới. Trong những tia hồi quang mờ lụi của phút tận chiều nhá nhem, Kiên như càng thấy rõ hơn cảnh tượng rùng rợn. Vậy mà lẳng lặng anh tra lại chốt cho quả u ét rồi từ từ bò lui. và cùng với bóng tối đang buông xuống rừng từng đợt anh êm thấm trở về chỗ khe cạn.
Đoàn tải thương lập tức dắt díu, khiêng cáng nhau di chuyển. Và mặc dù đêm tối trời đen đặc lại phải đi tránh khỏi cái tráng có tảng đá hình đầu người dùng làm vật chuẩn, Kiên vẫn định được hướng. Trong đêm theo lối mòn Hòa đã tìm thấy khi chiều. anh dẫn cả đoàn tiếp cận bờ sông và vượt sang ngang trót lọt. Do không chạm dịch nên Kiên không phải dùng tới trái lựu đạn. Cả đêm anh giữ nó lăm lăm trong tay, làm
nóng lớp vỏ thép. Sau đấy chẳng thấy ai hỏi gì anh về Hòa cả. Anh cũng chẳng kể, rồi cũng bẵng quên. Có lẽ, đức hy sinh sự quên mình là cái gì quá giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ dễ quên. Một người ngã xuống để người khác có thể sống chuyện đó quá thông thường. Phải rất nhiều năm sau, nhờ tham gia vào đội thu nhặt hài cốt tử sĩ của sư đoàn, Kiên mới có dịp trở lại vùng hồ Cá Sấu. Tất nhiên anh nhớ ngay tới Hòa và
muốn đi tìm lại đoạn đường rừng ngày trước. Nhưng cái trảng trống ấy không hiểu sao chẳng còn dấu vết. Tảng đá hình đầu người, chứng tích duy nhất như thể đã bị nhòa trong thời gian. Chỉ còn lại đó ngàn cây âm u, những thảm lá mục nát lấp lên đáy rừng, các khe cạn, tiếng chim chóc, tiếng gió, tiếng những nguồn nước thì thầm xa xôi và hương thơm hoa chạc chậu hoa vòi voi, hòa quện vào nhau gợi nhớ và lưu giữ một điều gì đấy thầm lặng, mơ hồ, phảng phất đâu đây.
Ngồi xuống ở một bìa rừng trong bóng hoàng hôn, nhắm mắt lại dõi nhìn vào cõi xa khuất, lặng lẽ Kiên trông thấy toàn cảnh của những gì mà trí nhớ đã lảng tránh suốt bao năm từ bấy đến giờ. Anh cảm thấy lại cả trái lựu đạn đã rút chốt mà không dám phát nổ của mình buổi chiều hôm đó đang nằm nằng nặng trong lòng bàn tay. Tuy nhiên, bao nhiêu sợ hãi và đau đớn, uất giận và căm hờn, những trạng thái tinh thần bạo liệt đã co giật và giằng xé trong lòng anh khi ấy trước tình cảnh kinh khủng quá sức chịu đựng ấy, không còn có thể trỗi dậy cùng với hồi tưởng. Bây giờ đây chỉ có nỗi buồn, mênh mang nỗi buồn – nỗi buồn được sống sót, nỗi buồn chiến tranh – tràn phủ tâm hồn anh.
Nếu không nhờ có Hòa cùng biết bao đồng đội thân yêu ruột thịt, vô số và vô danh, những người lính thường, những liệt sĩ của lòng nhân, đã làm sáng danh đất nước này và đã làm nên vẻ đẹp tinh thần cho cuộc kháng chiến, thì dối với Kiên, chiến tranh với bộ mặt gớm guốc của nó, với những móng vuốt của nó, với những sự thật trần trụi bất nhân nhất của nó sẽ chỉ đơn thuần có nghĩa là một thời buổi và một quãng đời mà bất kỳ ai đã phải trải qua, đều mãi mãi bị ám ảnh, mãi mãi mất khả năng sống bình thường, mãi mãi không thể tha thứ cho mình. Bản thân anh nếu không nhờ được sự che chở đùm bọc, được cưu mang và được cứu rỗi trong tình đồng đội bác ái thì ắt rằng đã chết từ lâu, không vì bị giết chết cũng sẽ tự giết mình bằng cách nào đó để thoát khỏi gánh nặng chém giết, gánh nặng bạo lực mà thân phận con sâu cái kiến của người lính phải cõng trên lưng đời đời kiếp kiếp.
Bây giờ thì đã qua cả rồi. Tiếng ồn ào của những cuộc xung sát đã im bặt. Gió lặng cây dừng. Và vì chúng ta đã chiến thắng nên đương nhiên có nghĩa là chính nghĩa đã thắng, điều này có một ý nghĩa an ủi lớn lao, thật thế. Tuy nhiên, cứ nghĩ mà xem, cứ nhìn vào sự sống sót của bản thân mình; cứ nhìn kỹ vào nền hòa bình thản nhiên kia và nhìn cái đất nước đã chiến thắng này mà xem: đau xót, chua chát và nhất là buồn xiết bao.
Một người ngã xuống để những người khác sống, điều đó chẳng có gì mới, thật thế. Nhưng khi anh và tôi thì sống còn những người ưu tú nhất, tất đẹp nhất, những người xứng đáng hơn ai hết quyền sống trên cõi dương này đều gục ngã, bị nghiền nát, bị cỗ máy đẫm máu của chiến trận chà đạp, đày đọa, bị bạo lực tăm tối hành hạ, làm nhục rồi giết chết, bị chôn vùi, bị quét sạch, bị tuyệt diệt, thì sự bình yên này, cuộc sống này cảnh trời êm biển lặng này là cả một nghịch lý quái gở.
Chính nghĩa đã thắng, lòng nhân đã thắng nhưng cái ác, sự chết chóc và bạo lực phi nhân cũng đã thắng. Cứ nhìn mà xem, cứ ngẫm nghĩ mà xem sự thực là như thế đấy. Những tổn thất, những mất mát có thể bù đắp, các vết thương sẽ lành đau khổ sẽ hóa thạch nhưng nỗi buồn về cuộc chiến tranh thì sẽ càng ngày càng thấm thía hơn, sẽ không bao giờ nguôi.
Chính là từ chuyến đi tảo mộ năm ấy, trên con đường hành hương xuyên giữa rừng rậm chằng chịt những sự tích bị lãng quên, qua hồ Cá Sấu với Hòa, qua Truông Gọi Hồn với anh em trong trung đội trinh sát mà Kiên đã bắt đầu quá trình lâu dài cảm nhận lại chiến tranh dưới làn ánh sáng chậm rãi của nỗi buồn.
Từng bước một, từng bước một, từng ngày, từng sự kiện được tái hiện trong lòng anh một cách trầm tĩnh và u buồn. Ánh sáng của nỗi buồn soi về quá khứ, ấy cũng là ánh sáng thức tỉnh, ánh sáng cứu rỗi của đời anh. Bằng sự trầm mình sâu xa trong hồi tưởng, trong nỗi đau buồn chiến tranh không bao giờ nguôi mà anh sẽ tồn tại đến trót đời với thiên chức là một cây bút của những người đã hy sinh, là nhà tiên tri những năm tháng đã qua đi, người báo trước thời quá khứ.