Trong ba người bạn thân cùng hoạt động NVGP, Trần Dần viết nhật ký, Hoàng Cầm thuật lại dĩ vãng trong các bài ký, hồi ký, băng ghi âm nói chuyện với bạn bè, chỉ Lê Đạt là không viết gì về đời mình. Tại sao? Một phần, dường như ông không coi tiểu sử nhà văn là vấn đề quan trọng, nhưng có lẽ còn lý do nữa, vì đời ông, nếu viết rõ ra, chỉ “có hại” cho gia đình. Ông không muốn các con biết về hoạt động của cha để đỡ bị liên lụy. Đào Phương Liên, con gái ông, hỏi: Bố là ai? Các con không biết cha đã từng làm thơ, vì trong nhà “không có một quyển truyện một quyển thơ nào”.
Tiểu sử
Lê Đạt tên thật là Đào Công Đạt, sinh ngày 10/09/1929 tại xã Âu Lâu, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, mất ngày 21/4/2008 tại Hà Nội. Cha là Đào Công Đệ, mất năm 1975, quê phường Á Lữ, xã Mỹ lộc, Phủ Lạng Giang, Bắc Giang, làm việc trong sở hoả xa Vân Nam tại Yên Bái, gặp mẹ ông là Nguyễn Thị Sen, mất năm 1982, bà người làng Đình Bảng, Bắc Ninh, theo gia đình lên Yên Bái buôn bán. Lê Đạt học tiểu học ở Yên Bái. 1941, 12 tuổi lên Hà Nội học trường Bưởi. Chiến tranh bùng nổ, trở về quê cha, tiếp tục trung học tại Á Lữ. Rồi đi theo kháng chiến. Về thời kỳ này, Lê Đạt chỉ ghi vài hàng sơ lược: “Năm 45 khi cách mạng tháng 8 bùng nổ, tôi theo cách mạng, rồi đi kháng chiến, chủ yếu hoạt động trong ngành tuyên huấn. Năm 49, tôi về công tác tại ban tuyên huấn của TU đảng Cộng Sản Việt Nam. Năm 1952, tôi chuyển hẳn về Hội văn nghệ TU và bắt đầu cuộc đời sáng tác của nhà văn chuyên nghiệp”1.
Trong Từ điển văn học, Nguyễn Huệ Chi viết: “Đầu kháng chiến, học tiếp trung học ở vùng kháng chiến rồi về công tác tại Ban Tuyên Huấn tỉnh Vĩnh Phúc và tiếp tục theo học trường đại học Pháp Lý2 cho đến khi trường giải thể. 1949, chuyển lên ban Tuyên Huấn Trung Ương Đảng Lao Động VN. 1952 về Hội Văn Nghệ. Sau 1954, về Hà Nội, tiếp tục công tác ở Hội Văn Nghệ“.
Đấy là những gì ghi trong tiểu sử chính thức.
Nhưng Hoàng Cầm cho biết, từ 1948 (19 tuổi), Lê Đạt đã là bí thư văn nghệ của Trường Chinh. Điều này dường như Lê Đạt không muốn nhắc đến.
Hoàng Cầm viết: “Đầu năm 1949, anh Lê Đạt, phái viên của Tổng bí thư Trường Chinh từ ban tuyên huấn được cử sang Hội Văn Nghệ làm trợ lý cho ông Tố Hữu”3.
Hoàng Cầm trong băng ghi âm cho biết rõ hơn:
“Lê Đạt kể lại với tôi: Năm 1949, khi ông Trường Chinh cử anh sang làm trợ lý cả chính trị và chuyên môn cho ông Tố Hữu, ông ấy có dặn hai điều:
Thứ nhất, trình độ văn hóa của anh Lành (tức Tố Hữu) có hạn, lãnh đạo anh em văn nghệ mà trình độ thấp thì bất lợi, vậy anh phải giúp cho anh ấy nâng cao trình độ văn hoá lên. Thứ hai, anh Lành là người tính nết arrogant, kiêu căng, hợm mình lại khinh người, mà trong văn nghệ có những cây đa cây đề như Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Nguyễn Xuân Khoát, Thế Lữ, Đoàn Phú Tứ… tất cả họ tập trung về theo kháng chiến, thì phải khéo léo lắm, nếu làm mất lòng họ, họ bỏ về tề4 là một thất bại lớn.
Lê Đạt xử sự rất khéo, với tính kiêu căng của ông Tố Hữu thì việc gì muốn làm, anh cũng bảo là do chỉ thị của ông Trường Chinh, vì thế năm 1949, anh tổ chức được ba cuộc hội thảo quan trọng tranh luận về thơ, nhạc, kịch. Làm cho không khí văn nghệ lúc bấy giờ sống động hẳn lên, có thảo luận trong sinh hoạt hàng ngày của anh em văn nghệ.
Khoảng 1952, 53, tôi có đọc mấy bài thơ ngắn của anh, như bài Lúa Bác Hồ gì đó, đăng trên báo Nhân Dân, thấy thơ anh rất mới, khác hẳn thơ tôi. Anh không làm theo vần điệu cũ, thơ anh bám sát đời sống hàng ngày, mà chữ rất mới. Tôi thấy Lê Đạt tính nết trẻ trung nhưng học vấn uyên bác. Anh làm việc trên Tuyên Huấn từ đầu, ở Tuyên Huấn có đủ loại sách báo, anh lại chịu học, chịu đọc, thơ tượng trưng, siêu thực của Pháp, anh hiểu sâu sắc lắm.
Cuối năm 1954, chúng tôi gặp lại nhau ở Hà Nội. Lê Đạt còn rất trẻ5 anh vừa ly dị cô vợ cốt cán, lấy trong cải cách ruộng đất, đang yêu Thúy Thúy trong đoàn kịch Thế Lữ.
Lúc bấy giờ chúng tôi thân nhau lắm. Từ đầu năm 1955, thường hẹn nhau, khoảng bốn rưỡi, năm giờ chiều ở quán trà Phúc Châu của người Tàu, ở Hàng Giầy: Văn Cao, Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm… ta gọi là bộ ngũ. Quán này khi có khách đến thì đem ra một cái khay, với phích nước sôi và một ấm có sẵn trà. Chúng tôi tha hồ uống, có khi pha đến nước thứ 6, thứ 7, đến nước chủ nhật, loãng toẹt ra rồi. Nhiều hôm gọi đến ấm thứ nhì, thứ ba. Bàn toàn chuyện thơ văn, khuyến khích nhau viết, Lê Đạt, Trần Dần đọc nhiều, biết nhiều lý luận về thơ, các nhà thơ hiện đại Pháp, Tử Phác nói chuyện âm nhạc mới… Thỉnh thoảng Phùng Quán cũng ghé qua nghe các ông anh nói chuyện thi ca: Thơ Đông phương, thơ Tây phương. Lê Đạt, Trần Dần, đọc nhiều, rồi họ nói lại thành ra mình học thêm được. Tiếng Pháp tôi chẳng kém gì các ông ấy nhưng tôi lười lý luận. Đọc thơ tượng trưng của Pháp, có chỗ tôi không hiểu, hỏi: Bài này nó hay ở chỗ nào? Tao dốt lắm. Thì Lê Đạt lại thân mật giảng cho tôi rất kỹ, tôi quý anh ở chỗ đó.
Cuối năm 1955, lúc ấy Trần Dần, Tử Phác còn đang đi học tập cải cách ruộng đất ở Yên Viên; gần Tết, Lê Đạt bảo tôi: Mày có nhiều bài không? Tết có gởi bài cho báo nào không? Các báo thì đông lắm, nhưng thơ mới kiểu chúng mình thì chưa chắc nó đã đăng đâu, hay ta soạn ra một tập, gọi là tác phẩm mới gì đó, giao cho Thầy Bảo (tiếng lóng của chúng tôi, nghiã là in tự do, không qua kiểm duyệt). Lúc đó vẫn còn vài nhà in sách báo tư nhân như nhà xuất bản Xây Dựng, nhà Minh Đức. Tao vẫn còn giữ cái bài Nhất Định Thắng của thằng Trần Dần, mày đi thúc đẩy Văn Cao, nó còn nhiều tiềm năng lắm, chỉ có mày bằng vai vế, mới thúc đẩy được nó, tao còn nhỏ, mà lại chưa có sự nghiệp gì, nói nó mắng cho. Thì tôi nghe lời Lê Đạt đến thúc đẩy Văn Cao. Lúc ấy Văn Cao không sáng tác nhạc nữa, anh đang mê vẽ, Lê Đạt giục tôi xuống nhà anh, Văn Cao hứa: – Được, rồi tao sẽ có bài. – Liệu mấy ngày, một tuần nhé? – Ừ, được, ít nhất tao có một bài, hào hứng lên là có hai. Thế là có bài Anh có nghe chăng? của Văn Cao trong Giai Phẩm Mùa Xuân6.
Lời Hoàng Cầm trong băng ghi âm, cho thấy sinh hoạt vô tư và tự do của nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân lúc ấy, cùng sự hình thành cuốn giai phẩm đầu tiên và vai trò của Lê Đạt.
Việc Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang hoạt động trong báo Văn Nghệ, đã được đề cập trong chương trước, ở đây chỉ nhắc lại lời Hoàng Cầm: “Anh Lê Đạt lúc đó làm bí thư chi bộ của báo Văn Nghệ, anh là người của Tuyên Huấn gửi sang như một nhân viên nhưng thực sự là để lãnh đạo tờ báo vì anh ấy là bí thư chi bộ”7.
Vậy Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang dường như đã bàn tính với nhau từ trước, nắm báo Văn Nghệ. Cùng thời điểm đó, bên quân đội, Tử Phác và Trần Dần nắm tờ Văn Học Nghệ Thuật. Hai tờ báo này sẽ “thao túng” dư luận văn học qua vụ phê bình Vượt Côn Đảo của Phùng Quán và Việt Bắc của Tố Hữu.
Trong bài “thú nhận”, Lê Đạt có câu:
“Đảng đối với tôi có rất nhiều ân huệ, kéo tôi ra khỏi bàn tay phản động của bọn Quốc Dân Đảng, cho tôi công tác gần các đồng chí lãnh tụ”8.
Như vậy, có thể tạm sắp xếp lại tiểu sử Lê Đạt, giai đoạn kháng chiến như sau: Năm 1945, 16 tuổi, còn học trường Bưởi, Lê Đạt chưa theo Việt Minh, lúc đó ông đang chịu ảnh hưởng Tự Lực văn đoàn, mẫu người lý tưởng đương nhiên là Dũng (trong Đoạn tuyệt và Đôi bạn) của Nhất Linh, tâm cảm Lê Đạt thời trẻ rất lãng mạn:
Yên Bái
dăm cô gái lỡ thì
thổn thức Nhất Linh
tay Loan Dũng
lên ô kính bụi
Sau này, Lê Đạt hết sức chống lại cái lãng mạn của Tự Lực văn đoàn, có lẽ cũng là cách chôn “lỗi lầm tuổi trẻ”. Lê Đạt theo Quốc Dân Đảng trong bao lâu? Có thể từ rất trẻ, theo cha, bài Cha tôi, có những câu thơ úp mở:
Ngày nhỏ cha tôi dẫn đầu lũ trẻ chăn trâu
Phát ngọn cờ lau vào rừng Na Lương đánh trận
Mơ làm Đề Thám…
Bởi thời ấy, chống Pháp, chỉ có vài con đường: Việt Minh hoặc Quốc Dân Đảng. Nếu theo Việt Minh, đã là chính nghĩa, có thể nói công khai. Vậy chắc Quốc Dân Đảng.
Từ 1945 đến 47 (16 đến 18 tuổi), tiểu sử chính thức ghi là theo cách mạng, rồi theo kháng chiến. Vậy tạm hiểu: theo cách mạng là thời theo Quốc Dân Đảng; đến 1947, mới theo kháng chiến, tức là mới “giác ngộ” Việt Minh.
Hoàng Cầm trong băng ghi âm cho biết nhiều thông tin về Lê Đạt, chưa thấy ghi ở đâu, có lẽ do chính Lê Đạt kể:
“Lê Đạt và Đặng Đình Hưng, lúc đầu đi kháng chiến cũng là đi lang thang như vợ chồng Hoàng Cầm thôi, tức là chưa biết tạt vào đâu để móc nối với kháng chiến. Bộ đội thì bí mật, họ lại ăn mặc như người dân, rất khó phân biệt. Hai anh đi lang thang thì gặp một người quen với anh Hưng, làm trưởng ty văn hoá Vĩnh Yên, sau này là Vĩnh Phúc. Anh trưởng ty vớ được hai ông sinh viên trường Luật, lại giỏi, thích quá. Một hôm ông Trường Chinh đi công tác, đêm về ngủ tại cơ quan, anh trưởng ty khoe: Báo cáo anh, em có hai người giúp việc giỏi lắm. Ông Trường Chinh cho gọi họ lên nói chuyện, rồi trò chuyện cả đêm về công tác tuyên truyền, văn hoá. Sáng sau, ông Trường Chinh dặn anh trưởng ty: Cậu thu xếp ngay cho hai anh này lên làm việc với tôi trên Tuyên Huấn Trung Ương. Ông Trường Chinh lúc bấy giờ (1947) làm tổng bí thư, chọn hai người làm thư ký riêng, là Đặng Đình Hưng và Lê Đạt. Ông ấy muốn huấn luyện cả hai thành lý thuyết gia của đảng Cộng Sản”9.
Như vậy, Lê Đạt gia nhập Việt Minh lúc 18 tuổi, vì có tài, được tuyển ngay vào Tuyên Huấn Trung Ương, làm bí thư cho Trường Chinh cùng với Đặng Đình Hưng (cháu họ Trường Chinh), nhạc sĩ, nhà thơ, nhà trí thức có tầm vóc.
Trường Chinh quả biết dùng người: ông chọn phụ tá Lê Đạt và Đặng Đình Hưng, sau này sẽ trở thành những nhà thơ tiên phong cho thi ca hiện đại Việt Nam, tiếc rằng ông lại không tính đến cái tự do của họ.
Vẫn theo Hoàng Cầm, 1949, khi Tố Hữu phụ trách toàn bộ văn nghệ kháng chiến, Trường Chinh cử Lê Đạt sang làm trợ lý cho Tố Hữu, thực chất là dạy văn hoá và sửa đổi tính tình Tố Hữu. Như vậy, cấp lãnh đạo -Hồ Chí Minh hay Trường Chinh- đã thấy ở Lê Đạt, ngoài khả năng văn hoá, còn có khả năng chiến lược và chính trị cao hơn Tố Hữu. Khi chuyển Lê Đạt sang làm bí thư chi bộ báo Văn Nghệ, 1954, trung ương lại một lần nữa xác định “lòng tin” vào Lê Đạt.
Những dữ kiện trên đây giải thích tại sao Lê Đạt thấy mình vững hơn Nguyễn Hữu Đang, khi làm báo Nhân Văn. Thực chất Lê Đạt khôn khéo và mềm dẻo hơn Nguyễn Hữu Đang, lại là “thầy” của Tố Hữu, cho nên trong vụ thanh trừng Giai Phẩm Mùa Xuân, tuy Lê Đạt chủ xướng, nhưng Tố Hữu vẫn còn nể Lê Đạt, chũi cả mũi dùi vào Trần Dần; cũng như ở Thái Hà ấp, Tố Hữu đã có một thái độ tương đối mềm mỏng với Lê Đạt. Lê Đạt thân thiết, kính trọng Thụy An và Phan Khôi, bởi cả ba đều đã từng hoạt động hoặc có cảm tình với Quốc Dân Đảng. Lê Đạt tranh đấu trên hai mặt: Về chính trị, chống chính sách đảng trị, đòi hỏi tự do dân chủ và về văn nghệ, chủ trương đổi mới thơ ca.
Đổi mới thi ca
Thất bại trong đấu tranh chính trị, nhưng Lê Đạt thành công trong việc đổi mới thi ca. Sau hơn 30 năm cấm in, Lê Đạt được “phục hồi” năm 1988. Tập Bóng chữ 10 tác phẩm đầu tiên xác định ông như một nhà thơ lớn, cùng với Thanh Tâm Tuyền, Đặng Đình Hưng, Trần Dần, bốn nhà thơ mới, đã xây dựng nền thơ Việt Nam hiện đại. Tiếp đến tập truyện ngắn Hèn đại nhân (Phụ Nữ, 1994), thơ Ngó lời (Văn Học, 1997), Từ tình Epphen (Tạp Chí Thơ, California, 1998), tập truyện ngắn Mi là người bình thường (Phụ Nữ, 2007), Thơ và đoản ngôn U75 từ tình (Phụ Nữ, 2007), và Tuyển tập Đường chữ (Hội Nhà Văn và Bách Việt, 2009) in sau khi ông mất.
Chủ trương đổi mới thi ca của Lê Đạt bắt đầu từ năm nào? Chắc từ trong kháng chiến. Hiện nay, tập Tỉnh mẹ (in trong Đường chữ) là chứng từ đầu tiên, chưa rõ năm nào. Hoàng Cầm cho biết: sau Giai Phẩm Mùa Xuân, Lê Đạt làm thơ về quê hương. Đến năm 1959, Đặng Đình Hưng viết được tập Cửa ô11, tôi viết Về Kinh Bắc, Trần Dần viết Cổng tỉnh, Lê Đạt làm một số thơ về vùng Yên Bái. Vậy tạm coi Tỉnh mẹ, làm trong khoảng 1955- 1959.
Một sự kiện ít người biết đến: năm 1949, Lê Đạt tổ chức cuộc tranh luận về thơ không vần để bênh vực thơ của Nguyễn Đình Thi, đang bị phe thủ cựu Tố Hữu đánh. Hoàng Cầm viết:
“Đầu năm 1949, anh Lê Đạt, phái viên của Tổng bí thư Trường Chinh từ ban tuyên huấn được cử sang Hội Văn Nghệ làm trợ lý cho ông Tố Hữu. Vốn là một anh sinh viên rất trẻ, rất sôi nổi, vừa đặt chân đến Hội, Lê Đạt đã làm thân với các bậc cha chú như Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Nguyễn Xuân Khoát. (…) Lê Đạt khởi xướng ra cuộc tranh luận về một đề tài mới mẻ và có vẻ hấp dẫn lắm: Vấn đề thơ không vần của Nguyễn Đình Thi (…) Anh Nhị Ca (…) nói: “Tiếc quá! Cậu không dự hôm ấy, giá có cậu thì có lẽ cũng góp được nhiều ý kiến bênh vực cho cái gọi là thơ không vần. Đằng này chỉ có tớ với Lê Đạt thêm một thằng Lưu Quang Thuận. Và anh Bửu Tiến. Cũng may có thêm bác Phan Khôi. Ông già này lại bênh rất hùng hồn, mày ạ. Còn một tá những ông già khác không chịu nói gì, hoặc có nói lại về hùa với ông Lành12. Anh Thi đâm ra yếu thế, sau cứ đành giơ sườn ra cho các ông ấy thụi. Thành thử, cái loại thơ tự do không vần bị ăn một trận đòn đếch cãi vào đâu được”13.
Lê Đạt cũng nói: “Thời kháng chiến, tôi và Nguyễn Đình Thi mới đầu chịu ảnh hưởng Eluard và tôi cũng làm thơ không vần như anh Thi. Tôi trọ ở nhà Eluard không lâu. Một thời gian dài tôi và Trần Dần chịu ảnh hưởng của Maïakovski rất đậm14”.
Như vậy, Lê Đạt cùng trường phái thơ không vần với Nguyễn Đình Thi từ 1948 và tập Tỉnh mẹ, có thể là những sáng tác đầu tiên của Lê Đạt..
Đem bục công an đặt giữa tim người
Bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử, gây sóng gió suốt thời kỳ NVGP, tiêu biểu sức phản kháng mãnh liệt của nhà thơ đối với chế độ độc tài, ngăn cấm tự do luyến ái, can thiệp vào đời tư của con người, khởi đi từ những sự kiện có thật trong đời Lê Đạt: Lê Đạt kết duyên với cô Nguyện, một cốt cán trong Cải cách ruộng đất, nhưng họ không hợp nhau, chỉ sống chung một thời gian ngắn rồi hai bên thoả thuận ly dị. Thời gian sau, Lê Đạt yêu Thúy Thúy (Nguyễn Thị Thúy), nghệ sĩ đang lên của đoàn Kịch Trung Ương. Năm 1956, hai người sống chung. Việc “bỏ người vợ cốt cán“, để lấy vợ nghệ sĩ, đã gây cho Lê Đạt và Thúy Thúy, không ít khó khăn, cả hai đều bị kiểm thảo, Trần Dần ghi trong nhật ký những ngày từ 23 đến 27/9/1955 như sau:
“Phê phán Lê Đạt: Đồng chí định bỏ vợ lấy Thúy là bỏ cục vàng lấy cục đất. Còn gì quý hơn là người làm việc cho Đảng? Đi CCRĐ15 bao nhiêu đợt rồi. Thành phần nông dân cốt cán. Đồng chí còn muốn gì? Không yêu nhân dân thì yêu ai? Chỉ có kẻ thù mới không yêu nhân dân thôi chứ! Kể xấu Thuý. Con lính đế quốc. Nhăng nhít nọ kia bao nhiêu vụ rồi. Tôi không thể đồng ý đề nghị của đồng chí. Không bao giờ Đảng đồng ý những cái sai. Đồng chí lắm lý luận lắm, đao to búa lớn, vợ đồng chí hiền lành, đồng chí có đem lý luận đàn áp, dù vợ đồng chí có bằng lòng ly dị, Đảng cũng không đồng ý vì biết chắc chắn rằng đó chỉ là vì bị đồng chí đàn áp, bằng lòng mồm chứ không bằng lòng thực”16.
Trần Dần cung cấp một số thông tin đáng quý: Cô Nguyện là thành phần cốt cán, có lẽ đã được Đảng “gả” cho Lê Đạt. Cô Nguyện bằng lòng ly dị (trên thực tế cô Nguyện đứng đơn xin ly dị). Vì vậy, Đảng răn đe: “dù vợ đồng chí có bằng lòng ly dị, Đảng cũng không đồng ý”.
Nhưng không chỉ có mình Lê Đạt, mà Hoàng Cầm, Trần Dần, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Trần Đức Thảo, Hoàng Yến,… đều bị Đảng xen vào đời tư, ngăn cấm tự do luyến ái, hoặc phá vỡ hạnh phúc gia đình.
Hoàng Cầm
Hoàng Cầm kể:
“Tôi gặp bà Hoàng Yến lần đầu vào khoảng tháng giêng năm 1945, lúc đó bà ấy đã nhận lời đóng vai Kiều Loan và đã tập được 4, 5 buổi, không hiểu sao ông chồng cũ của bà ấy lại đổi ý, không cho tập tiếp. Chín năm sau, khi đi kháng chiến về, tôi gặp lại ở Hà Nội, thì ông chồng đã chết cách đấy hai năm. Trông bề ngoài có vẻ quý tộc, đài các, còn đẹp lắm, tuy bên trong cuộc sống rất cực khổ, vì ông chồng bị phá sản, tự tử chết đi để lại toàn nợ nần. Gặp bà ấy, trong tôi nổi lên một sự thương cảm lạ lùng và quyết định xây dựng với bà ấy. Lúc đầu chỉ đi chơi với nhau, tối tôi về doanh trại.
Từ tháng 3, tháng 4/1955, tôi ăn ở với bà Hoàng Yến, tuy không tổ chức cưới xin gì, cứ độ mấy ngày tôi ra ngủ ở 43 Lý Quốc Sư một tối, sáng lại về trại. Tôi là trưởng đoàn văn công nên có thẻ đỏ, đi về lúc nào cũng được. Lúc ấy cũng là lúc tôi tham gia kiến nghị đòi hủy bỏ vai trò chính trị viên trong quân đội, trả văn nghệ về cho văn nghệ của Trần Dần, Tử Phác.
Đến khoảng tháng 4/1955, một hôm tôi nhận được giấy triệu tập của Cục Tổ Chức, thuộc Tổng Cục Chính Trị, yêu cầu đồng chí Hoàng Cầm phải có mặt đúng 9 giờ sáng ngày… có việc cần. Giấy ký tên Thành, Lê Thành gì đó, cục phó Cục Tổ Chức. Tôi lên. Thấy hắn tỏ ra rất oai, mình chào nó không chào lại. Tôi tự kéo ghế ngồi, bảo đã nhận được cái giấy anh triệu tập, xin anh cho biết việc gì? Bằng một giọng lạnh lùng, hách dịch, hắn bảo: “Ít lâu nay, chúng tôi được báo cáo anh có quan hệ với một người đàn bà tư sản ở ngoài phố. Tôi gọi anh lên đây báo cho anh biết kể từ hôm nay, anh phải cắt đứt ngay quan hệ với người đàn bà đó, nếu không, anh sẽ bị thi hành kỷ luật rất nặng”.
Thế là mình biết rõ ý định của nó rồi, nó đưa ra cái đường lối của Đảng là không quan hệ với giai cấp tư sản vì đó là kẻ thù. Nhưng cái bà Lê Hoàng Yến mà nó gọi là tư sản thì vừa chua chát vừa buồn cười, hay tại cái dáng đẹp đài các của bà ta? Người đàn bà ấy phải nuôi một đàn con 6 đứa, đứa lớn nhất 11 tuổi, với một mẹ già, một quả trứng không có mà ăn, chỉ toàn ăn rau muống với dưa, lương y tá công nhật hạng bét, 100 đồng, làm ở bệnh viện Việt Đức.
Tôi bèn xích cái ghế lại gần hắn, hỏi: “Anh Thành à, anh cho tôi biết thế nào là tư sản?” Thế là nó thấy mình vặn lý, nó đập bàn quát: “Này, tôi không lý luận gì với anh nhá! Chính sách tiếp quản thủ đô anh đã học hết rồi! Tôi gọi anh lên đây để cảnh cáo anh. Anh cứ liệu hồn đấy”. Thế là tôi lấy chân gạt cái ghế ra, đứng dậy đi phắt ra cửa, đóng sầm một cái, rồi ra về. Tôi viết ngay một cái thư xin giải ngũ hoặc chuyển ngành sang Hội Văn Nghệ, gửi đủ bốn ông: đồng chí tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, đồng chí chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị Nguyễn Chí Thanh, đồng chí trưởng Ban Tuyên Huấn Lê Quang Đạo, đồng chí phó Ban Tuyên Huấn Võ Hồng Cương.
Viết xong tôi đưa cho ông Võ Hồng Cương xem trước, ông trố mắt hỏi: Tại sao anh lại làm cái này nhỉ? Tôi trả lời đại ý: “Tôi đi bộ đội cũng tám năm rồi, mà trong quân đội tôi đã làm trọn nghiã vụ, thì bây giờ hoà bình, tôi xin chuyển ngành hoặc giải ngũ”. Anh Cương nói: “Trong quân đội anh được mọi người rất yêu mến, nhất là anh Giáp rồi anh Thanh đấy, cái đơn anh xin giải ngũ thật vô lý”. Tôi bắt buộc phải kể lại câu chuyện sáng nay: “Anh Thành bên Cục Tổ Chức triệu tập tôi, cảnh cáo tôi có quan hệ với một người phụ nữ ngoài phố, cái đó tôi không chối, nhưng lại nói là quan hệ bất chính với một người đàn bà tư sản, phải cắt đứt ngay. Tôi chỉ hỏi thế nào là tư sản thì anh ấy đập bàn đập ghế với tôi, thì anh bảo tôi còn ở lại quân đội sao được. Anh là cục phó Cục Tuyên Huấn, nhưng Cục Tổ Chức vẫn nắm sinh mệnh của anh vì họ nắm lý lịch của anh. Tôi là nghệ sĩ, tôi quen sống tự do, mà lại phải ở dưới quyền một người như thế thì làm sao tôi chịu được”. Anh Cương hơi lúng túng: “Cái này là bệnh ấu trĩ, chứ anh Thành làm sao có thể thi hành kỷ luật anh về chuyện ấy được!” “Người ta là cục phó Cục Tổ Chức mà người ta nói như thế thì người ta thừa sức kỷ luật tôi về việc hủ hoá, đạo đức không tốt, có quan hệ với tư sản, kẻ thù của cách mạng”. Nhưng anh Cương nhất quyết từ chối. Thế là lá đơn tôi xin giải ngũ cứ nằm chờ, từ tháng 5 đến tháng 11, tôi nhất định không đổi ý, mà các anh, anh Giáp, anh Thanh, anh Cương, đều muốn giữ tôi lại. Nhưng tôi biết mình là người sống buông thả, lãng mạn về chuyện phụ nữ, mình biết bệnh của mình, không thể ép vào cái kỷ luật ấy được. Trong kháng chiến đã ba lần tôi từ chối vào đảng, chỉ vì nghe đọc cái kỷ luật của đảng viên, là tôi đã ngại rồi. Sau cùng tôi nghĩ chỉ còn cách nhờ ông Tố Hữu. Tố Hữu lúc bấy giờ đối với tôi chỉ có vụ phê bình thơ Việt Bắc, đối với ông ấy thì cũng nặng nề đấy, nhưng cũng chưa tan vỡ lắm, ông ấy vẫn có phần nể mình. Tôi mới viết thư cho ông Tố Hữu, muốn xin sang làm việc bên Hội Văn Nghệ, nghiã là xin chuyển ngành thôi, chứ không xin giải ngũ nữa. Tố Hữu viết thư cho ông Lê Quang Đạo, mọi việc được giải quyết ngay. Ngày 8/11/1955 tôi ra khỏi quân đội. Về Hội Văn Nghệ, thì được ông Hoài Thanh phân sang làm việc ở nhà xuất bản Văn Nghệ với Tô Hoài và Kim Lân.
Lúc đó là tháng 1/1956.
Trần Dần
Hoàng Cầm kể:
Từ cuối năm 1954, Trần Dần yêu một người phụ nữ. Một hôm đi xem chiếu bóng với Cao Nhuệ, tình cờ hai anh gặp hai cô gái có dáng đi uyển chuyển, bèn lân la làm quen, rồi rất nhanh anh Dần có cuộc tình với cô Khuê. Hẹn với cô Khuê, thì anh ấy, hoặc mượn thẻ đỏ của tôi để ra trại, hoặc trèo tường ở chỗ đầu Lý Nam Đế.
Lúc bấy giờ, trong quân đội có tin đồn rất ghê: Vì cô Khuê theo đạo Cơ Đốc, lại là con nuôi ông tổng giám mục, tên là Douley (?) gì đó, nên nó tung tin cô Khuê được gài lại làm gián điệp, mà gián điệp thì trước tiên nó xông vào quân đội, và như thế là Trần Dần mắc cạm bẫy gián điệp. Tôi mới hỏi ông Võ Hồng Cương: “Có gì mà bảo cô ấy là gián điệp hở anh?” Ông Cương rất lành và thật thà, ông ấy bảo: “Cái này là bên Cục Tổ Chức và Cục Bảo Vệ, bao giờ người ta cũng theo dõi tất cả hành động của cán bộ khi mới về tiếp quản, tôi cũng chẳng biết thế nào, nhưng anh là bạn thân của anh ấy, anh bảo anh ấy thôi đi, chuyện này nó phiền phức quá, mà tôi thì không muốn làm cái gì nặng nề với anh ấy”. Nhưng cái dư luận ấy càng ngày càng tăng, bởi vì Trần Dần và Tử Phác còn đưa ra cái Đề nghị cải tổ, mà họ cho hai anh là chính, Hoàng Cầm không sâu sắc gì, chỉ a dua thôi, không phải chủ mưu. Thế là họ mở cái lớp đấu tranh nội bộ chống Trần Dần Tử Phác, ông Võ Hồng Cương phải chịu trách nhiệm, học tập tình hình trong Cục Tuyên Huấn, có biểu hiện không tốt, học tập để đấu tranh chống tư tưởng tư sản của Trần Dần. Sau đó, Trần Dần và Tử Phác bị kỷ luật hai tháng17, bị giam trong hai cái phòng, để viết kiểm điểm, tối họ khoá cửa để anh ấy khỏi trèo tường ra ngoài. Hoàng Cầm thì được ở Liễu Giai với đoàn văn công và không bị truy tố gì cả, mặc dầu có tham gia bản kiến nghị. Độ mấy ngày viết xong kiểm điểm, thì anh ấy làm thơ. Anh Dần có bài thơ nhớ cô Khuê hay lắm. Cũng trong thời gian đó Trần Dần viết bài thơ dài Nhất Định Thắng.
Tử Phác
Về trường hợp nhạc sĩ Tử Phác, Hoàng Cầm kể:
Tử Phác là con nhà tư sản, sau 1954, về Hà Nội, anh vẫn giữ nếp sống tư sản, về ở nhà riêng, phố Hàng Giấy, trước cửa chợ Đồng Xuân, nhà to lắm. Anh có bà vợ chính thức là cô Nghiã, dạy piano, violon, ở trường nhà nước. Tử Phác làm trưởng phòng Văn Nghệ Quân đội, vì dan díu với một cô diễn viên, nên bị mất chức. Tử Phác, Trần Dần và tôi, đều bực mình về việc văn nghệ sĩ bị trói buộc trong cái kỷ luật nghiệt ngã, nên bàn nhau làm cái kiến nghị lên ông Nguyễn Chí Thanh để cải tiến lãnh đạo văn nghệ.
Tử Phác bị đánh không phải vì chuyện tình duyên mà vì thái độ của anh: Anh luôn luôn chống lại những giáo điều. Khi cán bộ lên lớp dạy dỗ mọi người thì Tử Phác cứ khinh khỉnh, quay mặt đi, không thèm nghe, ngồi quấn thuốc lá hút. Vì thái độ kiêu kỳ, khinh cấp trên, nên Tử Phác bị ghét, bị coi là đồng loã với Trần Dần chống Đảng, bị bắt hai lần cùng với Trần Dần18.
Ngoài thái độ kiêu kỳ, Tử Phác còn là thư ký toà soạn báo Sinh Hoạt Văn Nghệ của quân đội. Ông bị liệt vào tội cùng Trần Dần tổ chức hội họp soạn bản Dự thảo và chiến dịch chống Đảng trên báo Sinh Hoạt Văn Nghệ.
Đặng Đình Hưng
Hoàng Cầm kể:
“Năm 1952, Đặng Đình Hưng nhận chỉ thị của ông Trường Chinh đứng ra thành lập Đoàn Văn Công Nhân Dân Trung Ương, anh làm đoàn trưởng kiêm chính trị viên. Bà Kim Thoa vợ anh Hưng đã về Hà Nội từ trước 1952. Cũng năm ấy, bà Thái Thị Liên, nữ dương cầm nổi tiếng, ở Pháp, được ông Pham Văn Đồng mời về nước. Bà Liên là vợ goá của ông Trần Ngọc Danh, em ruột ông Trần Phú. Đón bà Liên về, ông Đồng đưa lên sinh hoạt ở Đoàn Văn Công Trung Ương của Đặng Đình Hưng. Chẳng bao lâu hai người yêu nhau. Lúc ấy, bà Thoa đã về Hà Nội và người ta chưa biết cuộc chiến khi nào kết thúc. Việc đến tai Tố Hữu, nếu là người khác, thì đã bị ông quác lên ngay, nhưng ông Hưng thì ông Tố Hữu không dám, vì là bí thư và cháu họ của ông Trường Chinh. Sau 1954, ông Hưng thuê nhà phố Hai Bà Trưng ở với bà Liên19, nhưng cũng không bỏ hẳn bà Thoa. Rồi có chuyện bà Thoa kiện lên ông Trường Chinh, ông này giao cho ông Tố Hữu giải quyết.
Một hôm, khoảng 8 giờ tối, bà Liên đi vắng, chúng tôi đang ngồi uống rượu với ông Hưng thì ông Tố Hữu sai liên lạc xuống nói với ông Hưng: Anh Tố Hữu mời anh lên nói chuyện. Ông Hưng bảo tôi: Thằng đó gọi tao làm gì, tao đâu có quan hệ gì với nó, ban ngày thì là việc hành chánh, ban đêm tao đéo đi! Tôi can: Hưng ơi, dù sao cậu cũng là đảng viên, đoàn trưởng đoàn văn công, thì vẫn ở dưới quyền Tố Hữu, mà người ta mời lên chứ có gọi đâu! Tôi kích lên như thế thì ông ấy mới đi. Độ một tiếng sau, thấy trở về, mặt lầm lầm lì lì, chẳng nói chẳng rằng, ngồi xuống uống rượu tiếp. Một lúc tôi mới hỏi: Có việc gì quan trọng không? Thế là Hưng cáu: Mẹ nó đập bàn với tao, thì tao đập lại. Nó bảo: Anh không cắt đứt với bà Liên thì anh coi chừng cái sinh mạng chính trị của anh. Tao bảo: Tôi không có lỗi gì với Đảng hết, việc làm tôi không sai phạm gì hết. Việc bà Liên và bà vợ tôi là chuyện riêng của tôi, Đảng không có quyền can thiệp. Thế là nó đập bàn: Anh coi chừng cái sinh mạng chính trị của anh. Tao cũng đập bàn: Tôi chả coi anh ra cái thá gì cả, anh không là cái thá gì mà anh dọa tôi!
Thế là ngày hôm sau Tố Hữu chỉ thị cho Nguyễn Xuân Khoát, tổ trưởng đảng bên âm nhạc, kiểm điểm Đặng Đình Hưng, bắt nhận lỗi hủ hoá với bà Liên. Ông Khoát nhận chỉ thị thì phải làm chứ ông biết thừa tính ông Hưng. Ông Khoát tổ chức ba buổi, hỏi ý kiến anh Hưng nghĩ thế nào về việc bà Liên, ông Hưng trả lời dứt khoát: Tôi không có lỗi gì hết mà phải kiểm điểm. Việc tôi với bà Liên là việc riêng, Đảng không có quyền can thiệp.
Sau ba ngày kiểm điểm kết quả zéro, đến ngày thứ tư Tố Hữu ra lệnh khai trừ khỏi Đảng và cất chức đoàn trưởng, Thế Lữ lên thay. Việc này hoàn toàn không dính dáng gì đến NVGP, bởi vì Đặng Đình Hưng không viết bài cho NVGP, chuyện gia đình anh Hưng là chuyện riêng, nhưng người ta kéo vào NVGP, bởi vì cái gì cưỡng lại chỉ thị của Đảng, chống lại Tố Hữu thì bị quy là NVGP”20.
Hai nhạc sĩ Đặng Đình Hưng và Tử Phác hầu như không đóng góp bài vở cho NVGP -Tử Phác chỉ viết một bài nghiên cứu âm nhạc- nhưng vẫn bị thanh trừng nặng nề vì Đặng Đình Hưng được coi là đệ nhất quân sư. Tử Phác, thư ký toà soạn báo Văn Học Nghệ Thuật, là đệ nhị quân sư, đã cùng Trần Dần chủ mưu chống Đảng.
Áp lực bắt vợ Nhân Văn bỏ chồng
Hoàng Cầm kể:
Sau NVGP, ở những nơi có vợ Nhân Văn làm việc, đều được người ta vận động chi bộ, nếu là đảng viên hoặc công đoàn, nếu ngoài đảng, cho người đó bỏ chồng. Lập luận đưa ra: NVGP có tư tưởng cực kỳ xấu, phản Đảng, mà sống với người chồng như thế thì không thể hạnh phúc được.
Ví dụ, bà Nhất là vợ ông Trần Đức Thảo, dạy trường Cao Đẳng Sư Phạm. Hai người lấy nhau lâu rồi nhưng không có con. Thì chi bộ đại học vận động bà Nhất phải làm đơn ly dị, vì chồng có tư tưởng xấu, chống tổ quốc, chống Đảng. Chuyện đến tai ông Phạm Văn Đồng, ông Đồng mời bà Nhất lên vì ông rất kính trọng ông Trần Đức Thảo, can gián đại ý: “Việc anh Thảo tham gia NVGP, nếu ta gọi là sai lầm thì đó cũng chỉ là cái sai lầm nhất thời, nếu chị lấy cái cớ đó để ly dị, tôi e rằng nó xấu hổ cho người trí thức lắm”. Quả nhiên bà Nhất về có rút cái đơn ly dị đi. Và chi bộ cũng biết ý kiến ông Đồng như thế, nên nó đình lại 5 năm, rồi sau nó làm lại, thủ tục rất nhanh, ông Đồng không biết, lần này ly dị thật. Đấy là chuyện họ ép bà Nhất.
Còn chuyện tôi với bà Lê Hoàng Yến thì như thế này: khoảng năm 1959, sau khi thi hành kỷ luật, tôi đi lao động ở Thái Bình về, bà Yến kể: Một buổi sáng, anh thư ký công đoàn ở bệnh viện Việt Đức, ông giám đốc và một người nữa, đến nói chuyện với tôi, đề nghị tôi bỏ chồng: “Chồng chị là NVGP, tội nặng đấy, tư tưởng chống Đảng là xấu lắm, như ở bên Trung Quốc thì người ta đã bắn bỏ rồi, bên ta nhờ có cụ Hồ bao giờ cũng khoan hồng…”. Bà ấy trả lời: “Báo Nhân Văn thì tôi cũng chả đọc, mà có đọc tôi cũng chả hiểu họ viết gì, mà cho là phản động. Bây giờ các anh lại bảo Nhân Văn là xấu, tôi cũng chả hiểu xấu là thế nào, mà đến nỗi phải bỏ chồng. Thôi xin các anh miễn cho tôi nghe cái chuyện ấy”. Rồi họ ra về. Mấy hôm sau họ lại đến nữa, lần này thì bà ấy đuổi thẳng: “Nếu các anh đến thăm tôi về chuyện bênh viện Việt Đức thì mời các anh vào, còn nói chuyện như lần trước thì mời các anh về, tôi chả nghe cái chuyện ấy nữa đâu.”
Sang đến chuyện Lê Hoàng Yến. Anh Yến có viết bài phê bình thơ Tố Hữu năm 1955, đăng báo trước bài của tôi, và sau đó anh tham gia NVGP. Năm 1959, anh ấy phải đi lao động ở Phú Thọ, vợ là chị Thao, Xuân Thao gì đấy, vẫn ở Hà Nội, chị tuy năm con nhưng còn đẹp lắm. Anh Lê Hoàng Yến trước kia là trưởng ty công an tỉnh Quảng Nam, nhưng anh mê kịch, bỏ ngành công an về làm sân khấu. Anh có uy tín vì am hiểu sân khấu lắm, anh đọc nhiều kịch nước ngoài. Sau Nhân Văn anh cũng bị phê phán nặng, nhưng kỷ luật thì giống tôi, nghiã là chỉ bị khai trừ một năm.
Anh là đảng viên, thì cái tổ Đảng bên Sân Khấu của anh nó đến vận động bà Thao bỏ chồng. Bà Thao đã 5 con nhưng còn xuân sắc lắm, hơ hớ như độ đôi mươi. Chúng nó vận động thế nào mà bà Thao sốt sắng viết đơn đệ toà ngay. Người ta mời anh Lê Hoàng Yến từ Phú Thọ về ra toà để ly dị. Buổi đầu còn hoà giải. Anh Yến bảo “Tôi hoàn toàn không biết có lỗi gì, tôi yêu quý vợ tôi lắm và tôi luôn luôn giữ đủ bổn phận với gia đình, không hiểu sao vợ tôi lại có đơn này”. Toà hỏi chị Thao thì chị trả lời: “Anh Yến từ trước đến giờ quả thực không có lỗi gì, trước kia anh còn làm đến trưởng ty công an, nhưng không ngờ anh ấy lại tham gia vào cái bọn khốn nạn NVGP. Nhờ ơn Đảng nuôi dậy suốt đời các anh được hiểu biết, được sáng tác, như anh Hoàng Cầm viết được Bên Kia Sông Đuống, anh Trần Dần viết Người người lớp lớp, anh Văn Cao cũng thế… Vậy mà chỉ vài năm nay, không biết các anh ăn phải cái bả gì, người ta bảo là cái bả tiền nong, gái đẹp, khiến các anh đi vào con đường xấu xa phá hoại, chống Đảng, vì thế sống với anh, tôi mất hết hạnh phúc, tôi làm cái đơn này, mong toà giải quyết ngay cho, sớm ngày nào hay ngày ấy!” Anh Lê Hoàng Yến thuật lại với tôi như thế, bà ấy cứ một giọng chắc nịch, anh đi từ chỗ ngạc nhiên, đến chỗ buồn, buồn lắm, anh không hiểu sao vợ mình lại thay đổi nhanh chóng như thế. Tôi buồn quá, tôi nói như van vỉ vợ tôi: “Thôi em hãy nghĩ đến hạnh phúc của năm đứa con, nếu như tôi có lỗi gì thì tôi cũng đã vui vẻ đi lao động cải tạo để xây dựng lại cho tốt, xin Thao rút cái đơn đó đi, nghĩ đến tương lai các con mà rút đơn đi”. Chị Thao vẫn một mực khăng khăng: “Chính vì tôi nghĩ đến tương lai các con, không muốn chúng nhiễm tư tưởng độc hại NVGP của bố nó, trở thành những phần tử xấu xa của xã hội mà tôi phải ly dị!” Sau đó toà giải tán, hẹn nửa tháng nữa gặp lại. Trước khi về Phú Thọ, anh Yến xin với cô ấy: “Anh muốn gặp em để nói chuyện một tý”, cô ấy trả lời: “Chả có gì mà phải gặp, tôi đã nói hết ở toà rồi, anh Nhân Văn là khốn nạn lắm, tôi không thể sống được với anh nữa”. Lần hoà giải thứ nhì cũng vậy, bà ấy vẫn một giọng.
Đến phiên toà chính thức, đông người xem, tôi cũng đến. Chị Thao lên nói một cách oai phong lẫm liệt, đanh thép và rất ác: “Tôi với anh Yến lấy nhau có 5 mặt con, không có chuyện gì, nhưng gần đây, tư tưởng chồng tôi thay đổi một cách rất rõ rệt, trước kia là người tốt, công tác, tư tưởng, lập trường rất rõ ràng, nhưng từ khi anh ấy tham gia nhóm phá hoại NVGP, có tư tưởng cực kỳ xấu, phản Đảng, phản nhân dân, tôi nghĩ nếu tôi còn tiếp tục sống với anh ấy nữa thì đời tôi chỉ là đống bùn hôi thối…”21.
Bi kịch của các văn nghệ sĩ bị Đảng can thiệp vào đời sống riêng tư, được Lê Đạt thuật lại trong bài “Nhân câu chuyện mấy người tự tử” với hai câu thơ “để đời”:
Đem bục công an máy móc
đặt giữa tim người.
Bắt tình cảm ngược xuôi
theo đúng luật đi đường nhà nước
Lời thơ phát xuất từ những chuyện cá nhân, nhưng đã nói lên bi kịch của những người muốn tự do trong tình yêu, nhưng bị Đảng trực tiếp gán ép hoặc ngăn cản. Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác, đều chung cảnh ngộ: bị Đảng can thiệp vào đời sống cá nhân.
Riêng những người vợ Nhân Văn, nếu không chịu bỏ chồng, thì phải gánh chịu hậu quả việc chồng làm, trong suốt cuộc đời còn lại.
Lê Đạt kể: “Khi ấy, Thúy mới 18 tuổi. Ngày nào cũng có những cán bộ tốt bụng đến vạch rõ “bộ mặt phản động của Lê Đạt và khuyên cô cắt đứt với tôi (…) Cô không được làm diễn viên nữa, bị đẩy xuống làm phục trang và bị đối xử như một con chiên ghẻ. Có một điều chắc chắn là không có vợ tôi, thì tôi đã thân tàn ma dại rồi. Tôi đã làm lỡ cuộc đời nghệ thuật của cô và cô vì tôi mà mắc bệnh suy nhược thần kinh cho đến bây giờ. (…) Được phục hồi, tôi còn nhúc nhắc sáng tác được, nhưng Thúy thì được gì ngoài chứng bệnh suy nhược thần kinh, tê buốt khắp mặt đến mức nhiều khi không thể hé miệng được”22.
Lê Đạt ghi lại bi kịch gia đình trong thơ như một lời tạ lỗi vợ con, như một ân hận suốt đời, bài thơ vượt khỏi khuôn khổ gia đình để nói lên nghịch cảnh chung của tất cả những người vợ Nhân Văn mà Lê Đạt đã khắc chân dung họ vào văn học sử:
Vợ Nhân Văn
Lịch sử quýt làm cam chịu
Xin lỗi em
những đêm Nguyễn Bỉnh Khiêm23 trằn trọc
Anh Thái Hà24 chưa về
và em khóc
Xin lỗi em
những lời khuyên “cắt đứt”
Vạ gì đeo hai tiếng “liên quan”
Những buổi sớm
muốn chui đầu xuống đất
Mặt trời soi ngày kiểm thảo bắt đầu
Xin lỗi em
tiếng oan vợ thằng phản động
Lý lịch ba đời mấy đứa con thơ
Xin lỗi em
tuổi ước mơ không được sống
Những giấc ngủ
chưa một lần tròn mộng
Chung thân tâm thần
trọng tội đa mang
Đời sau ơi!
May còn đoái đến tôi
Hãy trả giùm tôi món nợ
Người vợ nhỏ
vừa thoát tuổi khăn quàng đỏ
Đã chụp mũ chồng
lưng thập tự Sói ăn
Và Đức Phật
duyệt xuất biên vào Tĩnh thổ
Xin độ trì
những Thị Kính-vợ-Nhân Văn.
Con Nhân Văn
Đào Phương Liên ghi lại cuộc sống gia đình nhân ngày giỗ đầu của cha. Bài văn khơi động một bi kịch kinh hoàng mà người ngoại cuộc không thể hình dung nổi:
“… Suốt tuổi thơ, con luôn trăn trở mãi trong lòng câu hỏi Bố là ai? (…)
Nhưng con không dám hỏi Bố vì sao sau những buổi vui vẻ ấy, Mẹ lại lo lắng nhắc Bố: “Ông đừng có nói to, cười lớn như thế!”. Bố thế nào cũng nổi cáu, quặc lại: “Tôi có làm gì khuất tất đâu mà không được cười to, nói to?” Con đã bênh Bố vì nghĩ đó không phải là một tội nhưng lại thầm thắc mắc: “Vì sao nhỉ? Hay cười nói to thế là không lịch sự?”.
Rồi một hôm Mẹ đi làm về, nhỏ to thì thầm: “Bà vợ ông Văn Cao dặn tôi nhắc ông vẫn có người theo dõi đấy. Ông phải cẩn thận. Đừng có cười to, nói to. Người ta để ý đấy!” Con đã quá quen với lời nhắc nhở đó, giờ chỉ còn mỗi bận tâm: “Văn Cao nào nhỉ? Làm sao mà Bố quen được với tác giả TIẾN QUÂN CA cơ chứ?”
Trên chiếc thùng gỗ tạp mà bề mặt xù xì dăm gỗ, chỉ rộng bằng tờ báo, kê dưới chiếc cửa sổ có chấn song nhỏ xíu của căn gác 3 như chuồng chim cu nhà ta, bố úp đáy làm bàn ngổn ngang giấy tờ, sách báo, Bố ngồi bệt dưới sàn, hý hoáy viết rồi gạch xóa. Bố là nhà thơ, nhà văn ư? Con thoáng nghĩ đến cái nghề cao siêu đó. Con lén tìm đọc. Con chỉ thấy vài chữ nguệch ngoạc bên lề những mẩu báo, bên lề những bài kiểm tra của con hay ở mặt sau những tờ giấy đen xì nổi gai: “chi chi…chành chành, rồng rắn lên mây, cái đanh thổi lửa”…(Mà mỗi khi con hỏi bố tìm gì vì thấy bố hoảng hốt, cáu gắt loạn lên thì bố chỉ im im rồi thở dài. Bố đâu biết mẹ con con khi lau dọn tưởng là rác vứt đi rồi!). Con vội gạt đi ngay vì nhà mình không có một quyển truyện, một quyển thơ nào (…) Và con lại trăn trở với câu hỏi: Bố là ai? Làm nghề gì? (…)
Cho đến tận năm 1975, năm lớp 10 cuối cấp, một cậu bạn cùng phố, học từ thời vỡ lòng với con, con một cán bộ miền Nam tập kết cấp cỡ, đến lớp bô bô: “Bố cái Liên là phản động chúng mày ạ”. Con nghe máu nóng bốc rát mặt nhưng cúi mặt vờ không nghe thấy. Một cậu bạn kế bên đế thêm: “Bố nó sỏ nhầm giầy à?” Lúc đó, con chỉ muốn độn thổ vì sợ.
Về nhà, con len lén để ý xem Bố có đúng là “phản động” không? Con không dám hỏi vì sợ… đúng???. Vì sợ… đụng phải nỗi đau cần phải che giấu của Bố dù con không hề tin!
Con đã tự trấn an mình bằng những kiến thức thu nạp được qua biết bao chuyện công an bắt gián điệp những tối thứ bẩy, qua những câu chuyện trong các tạp chí QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN, qua những nhân vật phản diện xấu xa trong các tác phẩm văn học. Con vừa là công an theo dõi Bố, vừa là luật sư phản biện, bảo vệ Bố. Con chịu khó lục tìm mọi chứng cớ có lợi cho Bố. (…) Con tự lý giải: Nếu Bố là “phản động” thì Bố đã không khóc ngày Bác Hồ mất! Nếu Bố “phản động” thì đã không có thẻ thương binh! (Lúc đó con không biết đó là thẻ Bố được tặng?) (…) Rồi con không được xét vào Đoàn dù lần kết nạp nào con cũng được giới thiệu, (….) Rồi con làm hồ sơ thi đại học, anh con bác hàng xóm cười khẩy: “Rồi em cũng như tụi anh thôi. Có giỏi mấy cũng chẳng vào được đại học. Cùng lắm là Sư phạm. Mà mày chưa Đoàn viên thì đừng mơ!” Đem thắc mắc đó về hỏi, Bố cười gạt đi: “Làm gì có chuyện đó. Con cứ thi đi. Mà Bố thấy Sư phạm cũng tốt”. Bố chợt trầm ngâm: “Chắc không có chuyện gì đâu. Bút danh của Bố là Lê Đạt cơ mà. Có phải Đào Công Đạt đâu mà lo?”. Rồi Bố lo lắng hỏi lại: “Thế có thật không phải Đoàn viên thì không được vào Sư phạm không con?”. Và bố lại tất tả dắt xe đi… Cho đến lúc ấy con mới được nghe từ Bố cái bút danh Lê Đạt nhưng quả thật không gây ấn tượng gì với con vì con chưa bao giờ nghe tới phong trào NVGP.
Và Bố không biết đâu, ngay những ngày đầu của năm thứ nhất Sư phạm ngoại ngữ, trong một giờ văn học sử Pháp, thầy giáo không biết sao lại nhắc đến “bọn Nhân văn Trần Dần, Lê Đạt” với những câu “bôi xấu chế độ”.
“Ta đi không thấy phố thấy phường
Chỉ thấy mưa sa trên nền cờ đỏ”
Của bác Trần Dần
Và của Bố:
“Đặt bục công an giữa trái tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi theo chế độ”.
Con đã cúi gằm mặt, người nổi gai vì ngỡ cả hội trường dồn mắt nhìn mình. Dẫu trong lòng con vang lên “nếu thế thì sai quá còn gì” dù con không biết những câu sau. Cho tới ngày Bố đi xa, cô chủ nhiệm của con mới móm mém: “tao đến khổ vì chuyện vào Đoàn của mày”. Con thật thà: “vì em chưa xứng đáng”. Cô vỗ vai: “vì cái lý lịch”25.
Và câu trả lời của Đào Công Uẩn, trước linh cữu Lê Đạt, có đại diện của chính quyền: “Cha chúng tôi là một người luôn sống và trả giá “cho một đất nước độc lập, tự do, một nền văn học nghệ thuật độc lập, tự do“.
Lê Đạt và Hồ Chí Minh
Trái với Nguyễn Hữu Đang, dứt khoát xác định trách nhiệm của Hồ Chí Minh trong việc đàn áp NVGP, Lê Đạt có một thái độ gần như băn khoăn, khó hiểu.
Trong buổi nói chuyện với ông (ghi âm ngày 13-04-1999) tại Paris, ở đoạn cuối, tôi có hỏi ông về Hồ Chí Minh. Khi phát thanh trên RFI, 2004, Lê Đạt đồng ý là nên cắt bỏ. Nay đã có khoảng cách thời gian, xin ghi lại hai câu đã bị cắt như một tư liệu, giải thích thái độ của Lê Đạt đối với vị lãnh tụ cộng sản:
TK: Chính ở trong phong trào của các anh cũng có điều khó hiểu: Ngay từ đầu, các anh đã phê bình tập thơ Tố Hữu, chỉ trích tập thơ đó thần tượng hóa cụ Hồ, và toàn bộ tinh thần NVGP đều chống lại sự thần tượng lãnh tụ. Nhưng trong thâm tâm các anh, ít nhất ba người Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm, đều thấm nhuần Tây học, mà vẫn thần tượng hóa cụ Hồ, có phải như thế không? Điều này làm cho người ta khó hiểu.
LĐ: Dĩ nhiên chị ạ. Mình có thể phê phán người khác, nhưng mình vẫn phạm sự thần tượng hóa, là tất nhiên. Nhưng khi tôi viết tôi không thần tượng hóa nữa. Tôi rất chú ý đến việc ấy, nhưng chắc là trong ngóc ngách tâm hồn tôi, chắc còn có nhiều chỗ vẫn thần tượng hóa.
TK: Trong thâm tâm các anh vẫn coi cụ Hồ là “thần tượng”. Nhưng cụ Hồ lại chủ trương điều mà các anh chống lại, đó là sự toàn trị, và cụ Hồ cấm đoán cái mà các anh đòi hỏi, đó là tự do tư tưởng. Mình không thể nào “tranh đấu” với một thần tượng mình tôn thờ và đòi lật đổ sự độc tôn thần tượng đó. Đấy là điểm mâu thuẫn, không thể giải thích được trong lập luận của các anh?
LĐ: Tôi không bao giờ coi cụ Hồ là đại diện tự do và dân chủ cho đất nước Việt Nam. Tôi thần tượng là thần tượng ở những khía cạnh khác. Chị nên thông cảm với tôi. Thần tượng trên mọi phương diện thì tôi không bao giờ có, không bao giờ tôi nghĩ cụ Hồ là thần tượng của tự do dân chủ trên đất nước Việt Nam. Không có. Trong khi tôi đấu tranh thì có nghĩa là tôi đấu tranh cả với cụ Hồ. Nhưng một góc của tâm hồn tôi… Đó là bi kịch của tôi. Điều đó chị thông cảm cho tôi.
Ngoài micro, tôi nói đùa với nhà thơ: “Cụ Hồ đã làm các anh điêu đứng suốt đời mà anh vẫn còn bênh được thì lạ quá!“. Lê Đạt cười: “Thì mình cũng phải tin là còn có một người tử tế, chứ nếu cả nước đều một bọn vứt đi thì làm sao sống nổi!”
Lê Đạt có viết bài trường ca Bác26. Đây là bài thơ ca tụng bác Hồ với những tình cảm chung chung, không thấy bộc lộ cảm xúc chân thực, phát xuất tự đáy lòng:
“Trong lặng im trắng
mênh mông
mỗi tấc lòng
Ta càng nghe rất rõ
cái thủa Ba Đình
Di chúc
bác mở tay
mở bay
trang rộng”27
Thời đầu kháng chiến, hầu hết người Việt đều coi bác Hồ là “cứu tinh của dân tộc“, và nhà thơ nào cũng có bài ca tụng thần tượng, kể cả Vũ Hoàng Chương. Nhưng không hiểu sao, Lê Đạt lại làm bài Bác ở thời điểm khá trễ này? Phong Lê trong bài “Có một trường ca về Hồ Chí Minh…” cho biết trường ca này viết năm 1970 để kỷ niệm ngày giỗ đầu của HCM, nhưng phải 20 năm sau, mới được in28. Đào Phương Liên cho biết, khi “Ông” mất, bố mẹ để tang “Ông“. Như vậy bài thơ Bác đã làm sau khi Hồ Chí Minh mất, như một lời tạ ơn chăng?
Kết thúc lớp Thái Hà, Tố Hữu đe dọa Lê Đạt: “Tội của anh cũng nặng như tội Nguyễn Hữu Ðang. Lẽ ra anh cũng bị đi tù. Nhưng mà Ðảng vì nghĩ đến anh, chiếu cố đến anh còn trẻ, có khả năng và còn có thể giúp ích được cho đời nữa nên Ðảng khoan hồng với anh thôi chứ anh-đừng-nên-nghĩ-rằng-anh-tội-nhẹ!” Ðó là lời dặn dò của Tố Hữu với tôi trước khi tôi về.”29
Trong “lời dặn dò” của Tố Hữu, hình như Đảng chính là Bác? “Tội” của Lê Đạt nếu truy kỹ, nặng hơn “tội” Nguyễn Hữu Đang, vì những câu thơ Lê Đạt viết về chế độ cộng sản sẽ không bao giờ xóa được trong lòng ký ức dân tộc.
Nhưng Lê Đạt không bị đi tù. Phải chăng đã có sự “khoan hồng” ở Bác, đối với một nhà thơ có tài? Lê Đạt đã cảm nhận như thế và đó chính là bi kịch của ông? Tạm hiểu bài thơ Bác và tình cảm “khoan hồng” của Lê Đạt đối với bác, nằm trong bối cảnh như thế.
Những bài thơ khóc bác Hồ không được đăng
Trong băng ghi âm, Hoàng Cầm cho biết “lý lịch” một số những bài thơ ca tụng bác Hồ:
“Làm thơ ca tụng bác Hồ, trước tiên là Tố Hữu. Thời trước cách mạng, tôi đọc được trên báo một số bài thơ ký tên Tố Hữu, trong đó có một bài tên là Hồ Chí Minh. Lúc bấy giờ, chưa mấy ai biết rõ bác Hồ. Phải đến ngày 2/9/1945, người ta mới biết đó là một lãnh tụ ở xa về. Còn tên Tố Hữu chưa biết là ai. Bài thơ Hồ Chí Minh rất dài trong có một câu làm tôi chú ý: “Hồ Chí Minh mắt sáng quắc tay xanh lè mã tấu. Quyết vùng lên thề phanh thây uống máu lũ cường quyền. Ôi khoái trá vô biên”. Bài thơ tả một người: mắt sáng quắc, tay xanh lè mã tấu, thế ông ấy là tướng cướp à? Còn câu: Thề phanh thây uống máu quân thù thì có trong quốc ca của Văn Cao, trong bài Đêm Liên Hoan của tôi cũng có moi gan uống máu quân thù, và ngay quốc ca Pháp cũng có, nghe thấy mà ghê. Nhưng đặc biệt câu này: Ôi khoái trá vô biên, mới thật là rùng rợn, uống máu quân thù mà thấy khoái trá vô biên thì ghê quá, khát máu quá, không thể chấp nhận nổi. Đấy, tôi biết Tố Hữu qua bài thơ ấy.
Đến khi ông Hồ mất, năm 1969, Đặng Đình Hưng mới đưa ra ý kiến: Một người như bác Hồ mất đi thì ai cũng có cái xúc động. Vậy nhân dịp này, nếu chúng ta còn cái cảm tình gì đối với ông Hồ thì mỗi thằng nên làm một bài thơ, gửi lên Trung Ương để tỏ rằng: chúng tôi là những người công dân chân chính, cái gì đáng yêu đáng kính thì chúng tôi trân trọng. Trước cái chết của bác Hồ, chúng tôi biết rung động, tác phẩm của chúng tôi đây. Mọi người đều tán thành. Đặng Đình Hưng viết bài “Bác còn”, tức là Bác không chết đâu. Tôi viết bài “Bác về”, Lê Đạt viết “Bác Hồ” gồm 3 bài dài như trường ca. Riêng Trần Dần quanh quẩn mãi sau chịu thua: “Tao loay hoay mãi mà không làm nổi một câu nào!” Đành thôi. Thế là được ba bài, gửi lên bốn nơi: Ban Tuyên Huấn Trung Ương, đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Trường Chinh và Hội Nhà Văn.
Chúng tôi nhận được hai danh thiếp trả lời: Ông Phạm Văn Đồng trả lời anh Đặng Đình Hưng, đại ý: “Anh Hưng thân mến, tôi đã nhận được bài thơ anh viết về Bác, tôi đọc và rất xúc động. Ở trên này chúng tôi vẫn hết sức đấu tranh, thảo luận để làm thế nào cho anh em trở lại sáng tác như trước.” Hoàng Cầm nhận được thiếp của ông Trường Chinh vỏn vẹn: “Cảm ơn đã nhận được bài thơ về Hồ Chủ Tịch”.
Lê Đạt không nhận được gì cả.
Lê Duẩn, Tố Hữu không viết lời nào.
Đến Tết năm ấy, trên báo Nhân Dân người ta mở cái mục gọi cảm tình của “Quần chúng với Bác Hồ”, tôi cũng gửi bài thơ ấy đến báo Nhân Dân, kèm lá thư cho ông chủ nhiệm Hoàng Tùng, giãi bày: nhân danh công dân, trước cái chết của bác Hồ, tôi làm bài thơ “Bác về” mong được báo Nhân Dân trích dăm ba câu, như một tác giả vô danh, đăng trong mục “Quần Chúng với bác Hồ”.
Gửi hôm trước thì hôm sau anh Nguyễn Địch Dũng cầm trả tôi bản thảo cả bài thơ đó, bảo anh Hoàng Tùng có nhận được thư anh nhưng báo chật chỗ quá rồi. Điều đó chứng tỏ, người ta thù ghét anh em NVGP đến thế nào, đến khóc bác Hồ mà cũng không được phép đăng báo”30.
Việc làm thơ khóc bác Hồ của ba thành viên NVGP, có thể có hai ý nghiã: ý nghiã trữ tình, phát xuất tự tâm hồn của họ và ý nghiã chiến lược: muốn nhân dịp này để đo mức độ tình cảm của Đảng dành cho họ.
Sự trả lời của Đảng thật rõ ràng, tàn nhẫn, nhất là đối với Lê Đạt.
Tóm lại, dường như ở những nhà thơ như Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, luôn luôn có một con người ngây thơ, lãng mạn, trữ tình, khi nhìn vị lãnh tụ.
Trong khi những nhà trí thức như Phan Khôi, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang… phán xét lãnh tụ sáng suốt, rạch ròi hơn, vì họ không mấy lãng mạn mà nghiêng về lý trí.
Quốc Dân Đảng
1- Trong bản “tự thú” Lê Đạt viết một câu đáng chú ý: “Đảng đối với tôi có rất nhiều ân huệ, kéo tôi ra khỏi bàn tay phản động của bọn Quốc Dân Đảng, cho tôi công tác gần các đồng chí lãnh tụ, cho tôi đi thực tế để cải tạo, nâng đỡ những sáng tác của tôi, đến khi va chạm vào quyền lợi cá nhân, tôi trở mặt tấn công vào Đảng, nhẩy sang trận địa của giai cấp tư sản phản động và làm người phát ngôn của chúng”31.
2- Khi trả lời phỏng vấn Phạm Tường Vân, Lê Đạt cho biết:
“Nhà mẹ vợ tôi là cơ sở cách mạng, hai anh của Thúy một người là bí thư chi bộ xã, một người đi bộ đội. Hồi cải cách mẹ vợ tôi bị quy là gián điệp và anh cả bị quy là Quốc Dân Đảng chờ đem ra xử bắn. Thúy đương được ở đoàn kịch trung ương, lúc nào cũng nơm nớp sợ bị đưa về xã đấu tố. Thì vừa lúc sửa sai bắt đầu, cả nhà may mắn thoát nạn”32.
3- Truyện ngắn “Thế là… chị ơi!” của Vũ Ngọc Tiến, đăng trên Talawas, gián tiếp viết về đời sống nhà thơ Trần Dần và bà Bùi Thị Ngọc Khuê, vợ ông, đặc biệt có đoạn tả cái chết của ông Phán Hậu (ân nhân của bà Khuê) như sau:
“Cuối cùng thì thơ anh cũng được tôn vinh (…). Song cái án oan kết tội ông Phán Hậu, nhà chí sĩ yêu nước giầu có, danh giá bậc nhất tỉnh Nam Định bị bôi nhọ là tên phản động Quốc Dân Đảng, tay sai đế quốc Pháp ai rửa cho ông? Đêm trước ngày bị các Ông Đội sai cán bộ chuỗi, rễ đến nhà bắt trói ông đem đi đấu tố, ông lập bàn thờ giữa sân nhà, có bài vị Nguyễn Thái Học bằng chữ Nho, rồi ông đội khăn xếp, mặc áo the đen, lầm rầm khấn vái: “Tiên sinh năm nào lên máy chém vẫn để lại lời bất hủ rằng “không thành công cũng thành nhân”. Giờ độc lập thành công rồi, mai tôi lên đoạn đầu đài sẽ thành gì đây? Tiên sinh hỡi, tiên sinh!…” Cái án oan ấy khiến anh đang đi công tác Cải cách ruộng đất ở Thái Bình bị triệu hồi về giam lỏng ở đơn vị. Ngày ấy, nếu lần anh tự tử bằng dao lam trót lọt thì còn đâu những tác phẩm sau này anh viết cho người đời chiêm ngưỡng, hậu thế tôn vinh?”
Câu chuyện ông anh cả của Thuý Thuý, và ông Phán Hậu, ân nhân của Ngọc Khuê, khơi lại chính sách thanh trừng những người có “liên quan” với Quốc Dân Đảng và hiểu tại sao Lê Đạt phải tuyệt đối giấu quá khứ Quốc Dân Đảng của mình. Trong NVGP, ba người có “liên quan” với Quốc Dân Đảng là Phan Khôi, Thụy An và Lê Đạt, vì thế, một mối thâm tình liên kết họ với nhau:
– Trả lời phỏng vấn RFI, Lê Đạt nhắc đến Thụy An và Phan Khôi, với những lời đầy ý nghiã: “Phan Khôi với tôi vốn có những quan hệ đặc biệt”. “Trong thâm tâm tôi, bao giờ tôi cũng coi ông là người lãnh đạo tờ Nhân Văn“. Việc công nhận Phan Khôi là người lãnh đạo tờ Nhân Văn, chứng tỏ Lê Đạt chỉ coi Nguyễn Hữu Đang như bạn đồng hành, Phan Khôi mới là thủ lãnh. Ngoài uy tín của Phan Khôi trong văn học, còn có lý do nào khác, nếu không vì Phan Khôi là người theo Quốc Dân Đảng, lý tưởng đầu đời của Lê Đạt?
– “Tôi có thể bảo đảm 100% chị Thụy An không phải gián điệp”, “Chị Thụy An rất thân với anh em trong NVGP và đặc biệt là thân với tôi”. “Riêng tôi thì không bao giờ tôi quên công của chị Thụy An đối với tôi“. Tại sao Lê Đạt dám bảo đảm 100% Thụy An không phải gián điệp, nếu ông không biết rõ hành động của Thụy An? Nếu họ không cùng một lý tưởng?
Câu “Tôi không bao giờ quên công của chị Thụy An đối với tôi”, có nhiều ý nghiã. Công gì? Thụy An có công với nhiều người, công dạy Phùng Quán tiếng Pháp tiếng Anh, công giúp đỡ vợ con Lê Đạt… Nhưng từ khi Thụy An bị nạn cho đến khi chết, những bạn đồng hành không ai nói một lời biện hộ công khai cho bà, trừ Lê Đạt. Vậy có thể hiểu chữ “công” này là một công lớn: Ngoài sự kính phục người chị văn nghệ can trường, còn có sự hàm ơn Thụy An, đã không “khai” những điều bà biết về Lê Đạt, như một thành viên cũ của VNQDĐ.
Câu châm ngôn mà Lê Đạt cho ghi lại trong bộ Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại33 là: “Một nhà văn tự trọng nên bận tâm đến việc thành nhân hơn là thành danh” có gì rất gần với lời Nguyễn Thái Học: “Không thành công thì thành nhân“.
Tinh thần yêu nước phát sinh từ Yên Bái
Đất Yên Thế và đất Yên Bái đối với Lê Đạt có những gắn bó sâu xa: Yên Thế, quê nội và Yên Bái, quê ngoại.
Yên Thế là đất của Đề Thám, triều Nguyễn thuộc phân Phủ Lạng Giang (nay thuộc tỉnh Bắc Giang), có 2 mảnh đất lịch sử: tổng Nhã Nam và tổng Yên Thế:
– Nhã Nam, nơi Hoàng Hoa Thám làm lễ tế cờ khởi nghiã (1889), và cũng là nơi Lương Tam Kỳ đem thủ cấp Đề Thám nộp cho Pháp lãnh thưởng (1913).
– Yên Thế, nơi Đề Thám đặt đại bản doanh chiến đấu trong hơn 20 năm, vị trí hiểm trở, “rừng thiêng nước độc“, nằm giữa rặng Cai Kinh (Lạng Sơn) và đồi núi Thái Nguyên.
Yên Thế, một địa hình, một bối cảnh đất nước lâm nguy, một can trường chống Pháp thất bại:
Đất quê cha tôi
đất quê Đề Thám
Rừng rậm sông sâu
Con gái cũng theo đòi nghề võ
Ngày nhỏ
cha tôi dẫn đầu
lũ trẻ chăn trâu
Phát ngọn cờ lau
vào rừng Na Lương đánh trận
Mơ làm Đề Thám…
(Cha tôi)
Rồi người cha buông tay, bỏ cuộc, vì miếng cơm manh áo. Người con, tiếp tục lên đường:
Cuộc sống hàng ngày
nhỏ nhen
tàn bạo
Rác rưởi gia đình
miếng cơm
manh áo
tàn phá con người
Những mơ ước thời xưa
như con chim gẫy cánh
Rũ đầu chết ngạt trong bùn
Năm tháng mài mòn
bao nhiêu khát vọng.
Cha đã dạy con một bài học lớn
Đau thương
kiên quyết làm người.
(Cha tôi)
Bài Cha tôi sáng tác tháng 7/56, giữa Giai Phẩm Mùa Xuân và Nhân Văn, trong thời kỳ phục xuống mà sáng tác theo lời Văn Cao, như một tuyên ngôn, xác định con đường tranh đấu của Lê Đạt, lấy đất Yên Thế làm khởi điểm. Yên Thế được Lê Đạt công khai xác nhận, vì Yên Thế là tỉnh cha, là đất của Đề Thám.
Ngược lại, Lê Đạt không thể công khai trình làng Yên Bái, quê ngoại, bởi Yên Bái là quê hương Quốc Dân Đảng.
Yên Bái có pháp trường xử lòng ái quốc. Khi Nguyễn Thái Học và 12 bạn đồng hành lên đoạn đầu đài (1930), Lê Đạt mới lên một. Yên Bái là đất sinh, Yên Bái là Tỉnh mẹ. Yên Bái, hơn là một nơi chôn rau cắt rốn, đã trụ lại như cái mốc đầu đời, là khởi điểm của cõi viết Lê Đạt và nẩy mầm ý chí cách mạng vùng lên chống Pháp.
Tỉnh mẹ là tỉnh mình sinh ra, là đất mẹ: Yên Bái. Tập thơ Tỉnh mẹ, tạm coi như tập thơ đầu đời của Lê Đạt, âm thầm dành cho Yên Bái chỗ đứng thiêng liêng, nói lên tâm sự người thanh niên sinh ở Yên Bái. Tỉnh mẹ, in trong phần di cảo của Đường chữ, tác giả mơ hồ cho biết đây là tập thơ bị thất lạc đã 40 năm. Không một bài thơ nào có ghi ngày tháng ở dưới. Lê Đạt cũng không hề nhắc đến Tỉnh mẹ khi còn sống. Vậy Tỉnh mẹ có thật sự bị thất lạc? Hay đã bị “tịch thu”, sau này mới được trả lại? Tỉnh mẹ bị tịch thu, hay vì Yên Bái là một “liên quan” thầm kín mà tác giả cần phải giấu đi? Cũng như, về nơi sinh, Lê Đạt chỉ ghi Âu Lâu, trên bờ sông Hồng, không dám nhắc đến tên Yên Bái?
Tỉnh mẹ nói lên tinh thần chống Pháp của một thanh niên, nguồn gốc quốc dân đảng. Thơ làm theo lối leo thang, không vần, đã là giọng thơ Lê Đạt, đã có những hình ảnh lạ, táo bạo hơn thơ người khác. Điểm đặc biệt là sự gắn bó với Yên Bái, như cái nôi của hành động và tư tưởng, như một tiền trạm của lòng yêu nước, như một ý chí cách mạng, một sự đổi thay, một sự lập thân, khởi đi từ Yên Bái. Từ Yên Bái, cậu bé đã thấy một “người hàng xóm“, “người chị“, và cũng là “người yêu“, bị con trai quan phủ làm nhục, bị xóm làng hắt hủi:
Đêm ấy
chị ra sông tự tử
Theo những chiếc lá dâu ngày xưa
Áo trắng
như buồm mộng
về một chân trời nào
cao rộng
thăm thẳm
xa34
Từ Yên Bái, cậu bé nhìn thấy người ăn mày chết trước cửa giáo đường, bèn hỏi Chúa có thấy không?
Chúa về tự bao giờ
Có phải thật Người không?
Tiếng chuông
lu loa
hối hả
giục
người bõ già
Quét
chiếc xác
nằm co quắp
Chết
giữa ngày Phục sinh35
Từ Yên Bái, nhà thơ thấy một người anh, ban đầu có “chí lớn“, rồi chí ấy lụi tàn trong bổng lộc quan trường, cuối cùng nhìn lại sổ đời: Người anh không sống trong thời Pháp thuộc mà đang ở thời cách mạng:
“Trong khoảnh khắc
đối diện cùng sự thật
Sởn tóc gáy
như kẻ sát nhân
đột nhiên
thấy
người mình thủ tiêu
lững thững
hiện theo về
đối chất.
“Anh có thể lừa
cha mẹ
vợ con lừa cả nước
Nhưng thế nào
cũng có lần
anh phải lôi ra
trước vành móng ngựa bản thân anh”36
Yên Bái, một xã hội Việt Nam thoi thóp, tê liệt, đợi chờ:
Yên Bái
dăm cô gái
lỡ thì
thổn thức
Nhất Linh
tay
Loan Dũng
lên ô kính bụi
Chơ chỏng
mấy con búp bê
gẫy cẳng
bạc màu
Yên Bái
một phố chiều
thượng du nắng lụi
Một con đường
rơm rớm
máu rơi
Đôi vợ chồng già
không con
nhìn bóng tối
Ôm con mèo gầy
nhức nhối
chuyện ngày xưa
Yên Bái
hôm nào
cũng ra ga
Hôm nào
cũng nhỡ tàu
ở lại
Với những tiếng còi
rứt ruột
gọi đi
Và một chân trời
nhêu nhếch
khói (…)
Yên Bái
những ngày trích lục nhau
sao thành nhiều bản (…)
Yên Bái
một quê hương vỡ nợ (…)
Một ngã ba thành năm sáu ngã ba37.
Và người thanh niên ấy đã gửi những lời tạ tội về Yên Bái, tạ tội đã trót đốt quê hương. Tiêu thổ là bài thơ duy nhất trong thời kháng chiến đặt lại vấn đề tiêu thổ kháng chiến như một tội đồ đối với quê hương, dân tộc:
Yên Bái
chỉ để lại
trong tôi
những kỷ niệm
nhạt
như nước ốc
Sao hôm nay
khi tiêu thổ quê hương
tôi bỗng khóc (…)
Yên Bái ơi!
Cố sống
lấy thêm
dăm ngày nữa (…)
Hôm nay
ta đánh vỡ
quê hương
Đánh vỡ
từng viên gạch
tổ tiên ta
cóp nhặt (…)
Quê hương ơi!
Ta không phải
kẻ ăn tàn phá hại
Vén tay áo xô
đốt gia tài
ông cha để lại…38
Yên Bái chính là khởi điểm của cuộc lên đường, cũng là cuộc đi vào tan nát, khổ đau:
“Ôi! Những ngày đầu
quê hương tan nát lửa
Như đàn cò
vỡ tổ
bế nhau đi
Đằng trước một chân trời sẹo đạn
Đằng xa
thông thống một đường về
Ta đã
chọn
đường
đi về phía trước
Chân chảy máu
nạng vào nhau ta bước
Điểm chỉ
trên khắp mọi ngả đường
Trong bản giao kèo
ta ký
với tương lai39
Yên Bái còn là mẹ của cả những người lính viễn chinh:
Bà mẹ Âu Lâu
ngồi
như gốc mai nở trắng
giữa đàn con
đủ
các giống người
Thằng cả
Xa lum
người Xê nê gan
làm mỏ than Ma rốc
Vào hầm than
đen
như thấy dân tộc mình
mấy ngàn đời
vùi dập
chết
ở đây
Tan tầm về
ra bờ sông nước trong
rửa mặt
Rửa xong
nhìn
mặt vẫn nhọ than
Thằng hai
Ma Hô Mét
Công nhân bốc vác
An Giê
Gù gù
lưng cánh phản
Ngày ngày
khuân tổ quốc
xuống tàu buôn…40
Đối diện với những hô hào chém giết, máu, thù, trong thi ca thời ấy, Mẹ là bài thơ phản chiến, nhân bản nhất trong văn chương Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Nhà thơ không phân biệt chiến tuyến, “dám” coi “quân thù” cũng là con của mẹ Âu Lâu. Vì vậy “tội” của Lê Đạt phải là rất nặng, nặng từ trườc thời kỳ NVGP.
Nhân Văn Giai Phẩm
Xuân Diệu lên giọng: “Đã rõ rệt như ban ngày, tập Giai Phẩm Mùa Xuân 1956 phất lá cờ đầu tiên chống Đảng, chống chế độ, và Lê Đạt là nhà lý luận trong đó. Lê Đạt mở đầu Giai phẩm với cái tuyên ngôn: “Trích thơ gửi người yêu” (…) và bài thơ tuyên ngôn thứ hai “Mới” đăng trong Giai phẩm (…) Lê Đạt là một người chủ chốt của báo Nhân Văn, tham mưu cho cả tờ báo, tự tay sửa chữa nhiều bài đả kích chế độ ta rất cay độc (…) Cùng với Nguyễn Hữu Đang làm bộ óc của báo Nhân Văn, đứng làm “nhà lý luận” của bọn chống Chế độ (…) Sau khi báo Nhân Văn bị cấm, Lê Đạt liên lạc cấu kết với Thụy An, Lê Đạt đóng vai trò quan trọng trong việc lũng đoạn Hội Nhà Văn, Lê Đạt tích cực dùng ngòi bút viết lối văn hai mặt; Lê Đạt luôn luôn giữ một cương vị đứng chủ trường phái; mãi đến trong lớp học văn nghệ lần thứ hai (tháng 3 và 4/1958) vẫn còn tìm cách quay quắt. Cho nên, xét Lê Đạt, ta phải nhìn thấy cho hết, rằng Lê Đạt chống đối ta, phá hoại ta từ trong bản chất giai cấp thù địch”41.
Lê Đạt không chối cãi vai trò chủ chốt của mình trong bài tự kiểm thảo: “Tôi tham gia Nhân Văn với ý thức là người lãnh đạo lý luận của tờ báo vì tôi cho tôi vững vàng hơn Nguyễn Hữu Đang. Ban biên tập lúc đó gồm có 4 người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và tôi. Để tấn công quan điểm vô sản chuyên chính của Đảng, tôi vận động Thanh Châu viết bài Mậu Dịch, tôi góp ý, vẽ tranh một người đẽo chân cho vừa giày mậu dịch. (…) Nhân Văn bị đóng cửa nhưng tư tưởng Nhân Văn, tư tưởng chống đối vẫn chưa hết. Sau một thời gian các báo ngớt đánh, tình hình trở lại bình thường, chúng tôi lại vẫn gặp nhau đả kích Đảng, cho là độc đoán”42.
Trong thời kỳ NVGP, ngoài những bài xã luận chính trị ký tên Người Quan Sát cùng với Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt là nhà thơ sáng tác nhiều nhất và chống đối mạnh mẽ nhất. Ngoài những bài thơ in trên báo, còn có: Thế giới này là của chúng ta (phát hành tháng 12/1955). Bài thơ trên ghế đá (nxb Hội Nhà Văn, 1957). Cửa hàng Lê Đạt, (đang in, bị đình chỉ, Lê Đạt bị khai trừ khỏi đảng, tháng 7/1957). Đụng long mạch (in trên Tự Do Diễn Đàn, tháng12/56, báo bị cấm). Lê Đạt còn nói đến bút ký “Vào 21”, viết về thời kỳ bị kỷ luật. Hiện nay không biết văn bản này thất lạc ở đâu.
Trong tinh thần Đỗ Phủ, thơ Lê Đạt phản ảnh xã hội thời ông sống. Nhưng thơ bị cấm, bị tịch thu, hoặc bị thất lạc. Nếu muốn tìm hiểu thực chất của xã hội Việt Nam dưới chế độ cộng sản cần phải tìm lại những tác phẩm này, không chỉ của Lê Đạt, mà của toàn thể các tác giả trong NVGP đã bị chôn vùi. Những tác phẩm viết trong tù của Thụy An, có lẽ ở Sài Gòn, gia đình các em, hoặc bạn bà là Trinh Tiên -tên thật là Trinh Nữ, chồng là Bửu Đảo- còn giữ.
Nhờ hai bài đánh Lê Đạt của Xuân Diệu và Xuân Hoàng mà chúng ta có thể biết được nội dung một số thơ Lê Đạt sáng tác trong thời kỳ NVGP, đã bị cấm. Tập Bài thơ trên ghế đá, theo Xuân Diệu “dưới sự lũng đoạn của Hoàng Cầm” nhà xuất bản Hội Nhà Văn đã in tập thơ này năm 1957, sau khi Nhân Văn bị đóng cửa. Vẫn theo Xuân Diệu, tác phẩm này “là cả một hệ thống có ý thức phá hoại tinh thần từ đầu chí cuối”, “anh ta [Lê Đạt] vẫn cứ “đầu thai nhầm chế độ”, bài “Đu” là “một sự khiêu khích”. Bài “Gia đình”, với những câu như: “Nhiều dự định sa lầy trong đống tã”, “tình yêu bị những cái hàng ngày bóp cổ”, “Lê Đạt đưa những xót xa đau đớn ra và cho nó thắng trận”. Bài thơ trên ghế đá “đầy một điệu hưởng lạc, chết lịm trong tình yêu”.
Vẫn theo Xuân Diệu, trong bản đánh máy đưa cho nhà xuất bản còn có bài “Trong hầm bí mật”, nhưng không in, bài này rất tiêu biểu cho cái triết lý “máu, sướng và chết” của Lê Đạt. Xuân Diệu viết tiếp:
“Bài thơ trên ghế đá “còn có dã tâm đả kích Đảng. Cho Đảng là phao phí nhân tài (Con búp bê, Tình người), ví Đảng như một anh thợ cầu già chưa vợ, bắc rất nhiều cầu, xây dựng kinh tế được nhiều đấy, nhưng chưa bắc qua được một lòng người”.
“Hàng triệu lòng người đã nhờ Đảng mà tái sinh, yêu Đảng sâu sắc, nhưng cố nhiên lòng của bọn Nhân văn-Giai Phẩm thì chỉ có bọn tư sản phản động mới bắc được cầu”43.
Nhờ bài đả kích của Xuân Hoàng, chúng ta biết thêm nội dung bài Đụng long mạch, in trên Tự Do Diễn Đàn, tháng 12/56, báo bị cấm:
“Trong bài thơ “Đụng long mạch” (…) Lê Đạt dựng lên khung cảnh một địa phương đang bị hạn hán, có cán bộ về khuyên đào giếng nhưng vì sợ bị “đụng long mạch” nên các cụ nhất định không nghe. Sau có vợ chồng anh Ân đêm về bí mật bàn với nhau nên lén lút đem cuốc ra vườn đào giếng, đến sáng hôm sau bà con thức dậy thấy “mạch nước đùn lên nước phun loang loáng”, và từ đấy cả làng noi gương vợ chồng anh đào giếng chống hạn khắp nơi.
(…) Lê Đạt hết lời khen ngợi vợ chồng Ân – những “anh hùng” trong câu chuyện qua cái nhìn của Lê Đạt đã “dám cả gan đánh bốc với những già nua cũ kỹ của cuộc đời”. Lê Đạt đã kêu ầm lên một cách hậm hực rằng:
“Những con người ụ
Ềnh ra cản đường”
Và Lê Đạt hô hào:
“Cần biết bao nhiêu
Những cái đầu táo bạo
Dám nghĩ, dám làm
Không nô lệ chung quanh”
(…) Còn đây là cái nhìn của Lê Đạt về Đảng. Đó là:
…”lưng con rồng,
Ai đào giếng đụng vào long mạch
Thì phải tội mù hai con mắt
Cả nhà hộc máu chết tươi”
Và nhay đi nhay lại cái ý đó một cách dọa dẫm:
“Long mạch này mà đứt
Cả nhà không thoát một người”
hoặc:
“Long mạch hôm nay rung chuyển
Phen này rồi chết cả nhà”44.
Đời chữ của Lê Đạt chia làm hai thời kỳ, dưới hai ngòi bút: Nhà thơ thời thế, theo truyền thống Đỗ Phủ, ghi lại bộ mặt của xã hội toàn trị trên đất nước ta. Nhà thơ cách tân, theo truyền thống Mallarmé, mở một kỷ nguyên mới cho đường chữ.
Lê Đạt, nhà thơ thời thế, xác định tính chất cơ bản của lịch sử:
Lịch sử muôn đời duyệt lại
Không ai lừa được cuộc đời.
Lê Đạt, nhà thơ cách tân, gửi lại hậu thế những lời trăn trối đau thương:
Vũ trụ ơi
tha cho tôi
Tất cả những gì
thơ tôi chưa làm được
Khi tắt thở
mắt tôi đừng ai vuốt
Còn gì buồn hơn
màn đóng lại mục đời.
Trích tiểu sử viết tay, Đường Chữ, nxb Hội Nhà Văn, 2009. ↩
Theo Hoàng Cầm là Trường Luật, nhưng học ít lâu thì trường Luật bị giải tán. ↩
Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi trong tôi – Nguyễn Đình Thi ngoài tôi, Hồi kí, Talawas. ↩
Vào thành. ↩
Năm 1954, Nguyễn Hữu Đang 41 tuổi, Hoàng Cầm 32, Văn Cao 31, Trần Dần 28, Lê Đạt 25 tuổi. ↩
Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè. ↩
Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện vói bạn bè. ↩
Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 80. ↩
Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện vói bạn bè. ↩
Nxb Hội Nhà Văn, 1994. ↩
Theo Hoàng Hưng, Đặng Đình Hưng (1924-1990) để lại 6 tập thơ, phần lớn chưa xuất bản. Chúng tôi chỉ thấy Bến lạ (1991) và Ô mai (1991) và đã giới thiệu hai tác phẩm khai phá này trong cuốn Cấu Trúc Thơ, Văn Nghệ, 1995. ↩
Tức Tố Hữu. ↩
Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi trong tôi – Nguyễn Đình Thi ngoài tôi, Hồi kí, Talawas. ↩
Nghe Lê Đạt kể chuyện mình, Phạm Tường Vân phỏng vấn tháng 1/2003, BBC Việt Ngữ 6/5/2008. ↩
Cải Cách Ruộng Đất. ↩
Trần Dần ghi, Phạm Thị Hoài biên soạn, Văn Nghệ Cali, 2001, trang 87. ↩
Thực ra là ba tháng. ↩
Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè. ↩
Nhạc sĩ Đặng Thái Sơn, con của hai người sinh năm 1957. ↩
Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè. ↩
Những chuyện về Hoàng Cầm, Trần Dần, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, bà Nhất, bà Yến, bà Thao trên đây, theo băng HC nói chuyện với bạn bè. ↩
Nghe Lê Đạt kể chuyện mình, Phạm Tường Vân, bài dã dẫn. ↩
Vợ tác giả là diễn viên kịch nói ở nhà tập thể đoàn Kịch phố Nguyễn Bỉnh Khiêm (Chú thích Lê Đạt). ↩
Thái Hà ấp: nơi tổ chức cuộc đấu tranh chống NVGP (chú thích Lê Đạt). ↩
Đào Phương Liên, Bố ơi, những câu chuyện của con…, Tuổi trẻ cuối tuần, 12/4/2009. ↩
Một phần trích in trong Văn học VN sau cách mạng tháng Tám, Văn Học, Hà Nội 1992. ↩
Sđd, trang 132. ↩
Nhà xuất bản Thanh Niên, 1990, nhân ngày kỷ niệm 100 năm sinh HCM. ↩
Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI. ↩
Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè. ↩
Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 80. ↩
Lê Đạt trả lời Phạm Tường Vân, bđd. ↩
Nxb Hội Nhà Văn, 2007. ↩
Thơ ngây, Tỉnh mẹ, Đường chữ, trang 298. ↩
Người ăn mày già, sđd, trang 319. ↩
Một cuộc đời, sđd, trang 309. ↩
Phác họa màu xám, sđd, trang 333. ↩
Tiêu thổ, sđd, trang 345. ↩
Quê hương du ca, sđd, trang 353. ↩
Mẹ, sđd, trang 363. ↩
Xuân Diệu, Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân tư sản trong thơ Lê Đạt, Văn Nghệ số 13 tháng 6/58, in lại trong tập Dao có mài mới sắc của Xuân Diệu, 1963, các trang 86, 87, 89 và 95. ↩
Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58. ↩
Xuân Diệu, Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân trong thơ Lê Đạt, Văn Nghệ số 13, tháng 6/58. ↩
Xuân Hoàng, Thực chất tư tưởng chống đảng trong thơ Lê Đạt, Văn Nghệ số 11, tháng 4/1958, trang 71-72. ↩