Giai Phẩm Mùa Xuân do Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ trương. Hoàng Cầm trong bài Con người Trần Dần1, và sau này, trả lời phỏng vấn RFI, đều xác nhận Trần Dần không biết gì về việc in bài thơ Nhất định thắng vì lúc đó đang tham gia Cải Cách Ruộng Đất ở xa. Có lẽ là để gỡ tội cho Trần Dần. Sự thực Trần Dần có tham gia Giai Phẩm Mùa Xuân: Sau khi bị bắt lần thứ nhất, bị cấm trại 3 tháng, Trần Dần và Tử Phác bị gửi đi tham gia Cải Cách Ruộng Đất. Trong lời “thú tội”, Trần Dần viết: “Sau thời gian đó, trên có cho tôi đi tham quan cải cách ruộng đất để tự cải tạo. Song, tôi lại dựa vào cái thế tham quan, cứ đi lại Hà Nội, tiếp tục quan hệ với một người vợ chưa được phép. Hơn nữa lại quan hệ với Hoàng Cầm, Lê Đạt, ra Giai Phẩm Mùa Xuân. Tuy là họ đề ra, song sau khi thống nhất trước với nhau là: “Tự do lấy bài tôi đưa vào”, thì tôi hoàn toàn đồng tình. Mỗi lần gặp lại thúc đẩy, dục dã, ra cho nhanh. Việc tập hợp bài vở, tôi không rõ chi tiết. Bài Lão Rồng là do tôi viết. Tôi ví đồng chí Văn Phác như tên lý trưởng đã chà đạp Lão Rồng2“.
Lê Đạt cũng xác định việc chủ trương và tổ chức Giai Phẩm Mùa Xuân như sau: “Trần Dần ra rồi, chúng tôi mới nghĩ đến chuyện này: bây giờ làm sao mà in được một tập thơ, trái với nguyên tắc lúc bấy giờ – nguyên tắc bấy giờ là tất cả các bài đều bị kiểm duyệt. Tôi chủ trương tập này phải là một tập tự do sáng tác hoàn toàn, tức là mỗi cá nhân đều chịu trách nhiệm về bài của mình và không có kiểm duyệt gì cả. Tôi có bàn với Dần, Cầm, với Văn Cao, Tử Phác và mấy anh hội họa nữa là Sỹ Ngọc và Nguyễn Sáng. Lúc đó thì chưa tìm được chữ gì hay lắm. Tôi cũng không thích chữ Giai Phẩm tại chữ Giai Phẩm có vẻ Tự Lực Văn Ðoàn, nghe chữ ấy nó sang trọng quá tôi không thích. Nhưng lúc đó anh Minh Ðức và anh Ðang đều thích chữ ấy. Trước tôi định cái tít là “Thơ năm người”, nhưng mọi người bảo thế là “gây sự” quá, thì sau cũng đành lấy chữ Giai Phẩm3”.
Căn cứ vào các sáng tác trong Giai Phẩm Mùa Xuân, ta có thể xác định: Giai Phẩm Mùa Xuân là giai phẩm đầu tiên ở Bắc, sau cách mạng tháng Tám, đáp ứng hai đòi hỏi: tự do sáng tác và đổi mới văn học do Lê Đạt, Hoàng Cầm chủ trương, với sự cộng tác của Trần Dần, Văn Cao, Tử Phác…
Giai Phẩm Mùa Xuân chuyên về thơ. Tất cả có 9 bài thơ – Lê Đạt ba, Hoàng Cầm hai, Văn Cao, Nguyễn Sáng, Phùng Quán, mỗi người một và Nhất định thắng của Trần Dần. Ngoài ra, có truyện ngắn Sổ tay của Sỹ Ngọc và truyện phiếm Lão Rồng của Trần Dần.
Về hình thức, thơ trong Giai Phẩm Mùa Xuân khác với Thơ Mới: câu dài, ngắn, không đồng đều; nhịp điệu phóng khoáng; có thể nói đây là giai phẩm thơ đầu tiên thể hiện thơ hiện đại không vần ở miền Bắc.
Sáng tác trong Giai Phẩm Mùa Xuân có ba hướng:
– Khuynh hướng tuyên truyền cách mạng: Cổ động cho chính sách Cải Cách Ruộng Đất: Chống địa chủ, cường hào ác bá, đề cao cách mạng (Mùa xuân đến rồi đây của Hoàng Cầm); thơ chiêu hồi gửi miền Nam (Thơ qua đài phát thanh, Hoàng Cầm); thơ đề cao chiến thắng và công lao của Đảng (Hoa đào vẫn nở, Nguyễn Sáng); thơ kiến thiết đất nước, xây dựng xã hội mới (Mỗi ngày mỗi lớn – Gửi kế hoạch nhà nước 1956, Lê Đạt); thơ ca tụng công nhân quét đường (Thi sĩ và công nhân, Phùng Quán); văn tả cảnh đói khổ của người lao động, sự bóc lột của địa chủ, nhưng nhờ ánh sáng của Đảng, từ nay, trời sẽ “trong sáng vĩnh viễn” (Sổ tay, Sỹ Ngọc).
– Khuynh hướng vừa chống vừa theo: Trần Dần (Nhất định thắng).
– Khuynh hướng chống đối và đòi tự do sáng tác: Văn Cao (Anh có nghe thấy không) và Lê Đạt (Làm thơ và Mới).
Thơ Hoàng Cầm
Tiểu biểu cho khuynh hướng đầu tiên là thơ Hoàng Cầm. Là một trong những người xây dựng nên phong trào, nhưng khác với Trần Dần và Lê Đạt, hai nhà thơ trẻ, Hoàng Cầm thuộc lớp đàn anh, đã có vị trí vững vàng trên nhiều địa hạt văn nghệ. Trái với Tố Hữu, được coi là chủ soái dòng thơ cách mạng, ca tụng Bác và Đảng, Hoàng Cầm là nhà thơ dân tộc. Từ Bắc chí Nam, trước và sau 1954, thơ Hoàng Cầm được mọi người yêu mến. Hoàng Cầm cũng làm thơ tuyên truyền, nhưng tuyên truyền cho lòng yêu nước, rất ít những câu ca tụng đảng, ca tụng lãnh tụ. Ông giữ được ngòi bút độc lập, có uy tín đối với quần chúng.
Vì vậy, không phải tình cờ mà Nguyễn Hữu Đang, khi ra Nhân Văn số 1, đã hết sức vận động Hoàng Cầm và nhờ Hoàng Cầm viết bài bênh vực Trần Dần: Bởi trong nền thi ca cách mạng, chỉ Hoàng Cầm mới có đủ tư thế văn học để đương đầu với Tố Hữu lúc bấy giờ.
Hoàng Cầm cùng với Lê Đạt tổ chức Giai Phẩm Mùa Xuân, nhưng thơ ông trong Giai Phẩm Mùa Xuân, còn rất hiền lành, nếu không muốn nói là vẫn theo đường chính thống, không có tính cách quyết liệt như thơ Văn Cao, không tố giác như thơ Trần Dần và cũng không đòi đổi mới thi ca như thơ Lê Đạt. Bài Mùa xuân đến rồi đây theo đúng chính sách Cải Cách Ruộng Đất lúc bấy giờ, nói lên nỗi khổ của người dân trong bảy mươi năm nô lệ, đói khổ, dưới sự thống trị của bọn “địa chủ cường hào ác bá“, nhưng rồi cách mạng thành công đem lại ấm no, công bằng, hạnh phúc:
Bẩy mươi mùa xuân không xuân
Bảy mươi năm cùng tháng tận
Dòng sông Nhị ơi! Con cò lận đận
Bãi ngô dài cát trắng
Lòng sông cuốn nặng
Phù sa
Nước mắt mẹ con ta
Chảy ra ngoài biển rộng
Réo lên đầu sóng
Đùn đùn mây đen
Mưa lọt mái nhà rách thủng.
Mưa thốc xuống tàu chuối khô
Ướt đẫm manh tải
Mẹ con nằm trong đêm mưa
Nằm trong nước mắt đỏ như máu
Nằm trong nước sông đầy bùn nhơ
Dòng sông Nhị ơi! Lúa mượt hai bờ
Địa chủ đứng trên đê
Mắt ngầu hổ dữ …
Sau khi duyệt lại những năm tháng tối tăm cùng khốn đói khổ, bị đàn áp, Hoàng Cầm ca tụng mùa xuân trở về -cách mạng thành công- mang lại ấm no, công bằng:
Dòng sông Nhị ơi! Mùa xuân đến rồi đây
Mẹ con được chia: hai gánh thóc đầy4
“Thơ qua đài phát thanh” là bài thơ gửi “người em” bên kia vĩ tuyến, người yêu hiện đang ngâm thơ trên đài Sài Gòn, trong khi Hoàng Cầm ngâm thơ trên đài Hà Nội, bài thơ có những câu rất lãng mạng:
Tôi tìm Em trên sóng điện bao la
Thơ đã đứng lên, vút đi, cao lớn
Ống nói như môi em chờ đón
Trầm ngâm, ấp một nụ cười
Tôi sung sướng truyền thơ tôi
Cho những Người yêu khắp nước
Tóm lại, trong Giai Phẩm Mùa Xuân Hoàng Cầm mới chỉ thử nghiệm mấy câu thơ không vần, tinh thần cách mạng, chưa đả động đến những vấn đề gai góc như tự do tư tưởng, tự do sáng tác, chưa có câu thơ nào “bôi đen” chế độ.
Trần Dần
Trần Dần đưa ra một nhân vật kỳ quái trong truyện ngắn Lão Rồng, một bần nông say rượu bét nhè, nhưng là một “nhà sáng tác”, chuyên làm những bài vè phạm thượng, chế giễu, từ bọn sư mô đến lũ tai to mặt lớn trong làng. Lão Rồng vừa “sáng tác” xong một bài vè là đã có bọn con nít lập tức “xuất bản và phát hành”. Cuối cùng lão bị người ta lập mưu đánh chết.
Truyện ngắn Lão Rồng mở đầu phong cách đổi mới tư tưởng trong văn xuôi miền Bắc. Ngòi bút sắc sảo của Trần Dần đã chọc thủng những cấm kỵ, để lộ sự khao khát tự do của con người cùng khốn.
Bài thơ Nhất định thắng là tác phẩm chính của ông trong thời kỳ NVGP, giọng anh hùng ca, phản ánh tính mâu thuẫn trong tư tưởng tác giả. Trần Dần lồng bi kịch cá nhân -yêu người con gái ở phố Sinh Từ- trong bối cảnh chung của đất nước sau hiệp định Genève: Miền Bắc nghèo đói, thất nghiệp “Anh bước đi không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ”. Miền Nam dưới gót dày của “giặc”: “Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô, tài của hắn là Khuyển Ưng của Mỹ“. Nhưng chúng ta “Nhất định thắng“, đất nước sẽ thống nhất: “hàng triệu tâm hồn, đã bỏ miền Nam ra Bắc“, và “kẻ thù” -nghèo đói, Ngô, Mỹ- sẽ phải thua: “bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi“. Rồi trời lại xanh: “Anh bước đi đã thấy phố đã thấy nhà, không thấy mưa sa, chỉ thấy nắng lên, trên màu cờ đỏ“.
Nhất định thắng, như một bài thơ tuyên truyền
Đây là đoạn mở đầu:
Tôi ở phố Sinh Từ:
Hai người
Một gian nhà chật.
Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui?
Tổ Quốc hôm nay
tuy gọi sống hoà bình
Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất
Chúng ta còn muôn việc rối tinh…
Chúng ta
Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc
Vợ con đau thì rối ruột thuốc men
Khi mảng vui – khi chợt nhớ – chợt quên
Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt,
Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt.
Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù
Chúng còn đương bày kế hại đời ta?
Người ta nói thằng Ngô con đĩ
Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô
Tài của hắn là: Khuyển Ưng của Mỹ
Bửu bối gớm ghê là: một lưỡi đao cùn
Hắn nhay mãi cố xẻ đôi Tổ Quốc.
Tác giả trình bày cảnh đói khổ của miền Bắc, nhưng thầm ngụ ý Mỹ Diệm mới là nguồn cơn của mọi đớn đau: “Em ơi, Em có biết đâu, Ta khổ thế này, Vì sao? Em biết đâu, Mỹ Miếc, Ngô Nghê gì?”. Khi chửi Ngô Đình Diệm, Trần Dần có những câu sắt máu: “Hắn thét lên ộc máu mũi máu mồm”, “Đất trời sâu / đương vẩy máu / đuổi theo chân hắn. Hắn run sợ – Quỳ xin đã muộn! / Dù đêm khuya, bóng tối đặc ngầu ngầu / Máu vẫn đỏ / trúng đầu trúng mặt / Tên tội nhân kia! / Lịch sử vang tên mày!”
Bài thơ kết thúc có hậu: “Em có thấy bay trên trời xanh / Hàng triệu tâm hồn / Họ đã bỏ miền Nam ra Bắc! / Chúng đem súng mà ngăn / Đem dây mà trói! / Giữ thân người không giữ được nhân tâm / Người Nam gửi tâm hồn ra Bắc cả / Bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi / Đổ lên chúng nó / Mây đen / lửa loạn / bão thù“.
Và khi “ta” đã toàn thắng: “Anh bước đi / đã thấy phố thấy nhà / Không thấy mưa sa / Chỉ thấy nắng lên / trên màu cờ đỏ“. Người dân phố Sinh Từ đóng cửa xuống đường đi mít tinh: “Vung cờ đỏ hát hò vỡ phổi“.
Đó là một bài anh hùng ca theo lối cách mạng, có nhiều câu tuyên truyền rập thông tin nhà nước. Thực ra, tháng 4/1955, khi Trần Dần viết Nhất định thắng, Mỹ chưa vào miền Nam. Ngô Đình Diệm mới về, chỉ là thủ tướng, đang lo dẹp Bình Xuyên, Hoà Hảo, chưa thật sự nắm quyền và chưa có chính sách chống Cộng triệt để như sau này. Ngày 23/10/1955, ông mới tổ chức cuộc trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại. Vì vậy, bài Nhất định thắng, trong bối cảnh lúc bấy giờ, là một bài thơ “hai hàng”.
Cho nên, khi Chế Lan Viên buộc tội Trần Dần phản động, chống Đảng, ông chứng tỏ mình là tay sai đắc lực của Tố Hữu. Và khi Hoài Thanh viết: “Toàn bài của Trần Dần toát ra một sự hằn học sâu sắc đối với chế độ tươi sáng ở miền Bắc, đối với sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình, thống nhất của nhân dân ta. Tôi không kết luận về người. Tôi chỉ căn cứ vào bài văn. Tự nó, bài “Nhất định thắng” trong lời và chữ của nó, chứa đựng những tư tưởng phản động, đứng về phía địch chống lại nhân dân ta, chống lại cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Trong nền văn nghệ chúng ta đầy tin tưởng ở hiện tại và tương lai của chế độ, của dân tộc, bài “Nhất định thắng” của Trần Dần thật đúng như lời đồng chí Nguyễn Tuân nói, là một thứ mụn lở trên một cơ thể lành mạnh5”. Viết như vậy, Hoài Thanh không còn đứng ở cương vị một nhà phê bình, dựa trên văn bản để xét, mà ông đã xuyên tạc, nói ngược lại ý nghiã của bài thơ.
Thế nhưng chính Trần Dần cũng lại viết trong bài “tự thú” như sau: “Bài Nhất định thắng sinh ra trong cái nôi những tư tưởng chống đối như thế. Dưới chiêu bài “phát hiện mâu thuẫn xã hội”, “chống công thức, tìm cái mới”, bài Nhất định thắng bôi đen miền Bắc. Thất nghiệp hàng ế, đi Nam, hai năm không thống nhất được v.v… và cái điệp khúc “mưa sa trên màu cờ đỏ” nó nhấn mạnh: “Đảng là nguyên nhân của cái xã hội thê thảm này.” Những sự quy kết khác ép cho địch, thực chất chỉ là chiêu bài. Có những câu đả kích cán bộ chính trị “nhà chính trị lắm mưu trong bụng” về sau in xoá đi. Bài Nhất định thắng là một cuộc đánh thẳng vào tư tưởng của Đảng, trắng trợn và hung hăng6”.
“Thú nhận” như thế tức là đã hoàn toàn chấp nhận luận điệu của các ông Chế Lan Viên, Hoài Thanh, hoàn toàn nhận lỗi chống chế độ về mình. Mà thực tế văn bản đâu phải thế? Tại sao? Vậy có thể hiểu trong bối cảnh trù dập của lớp học Thái Hà, Trần Dần đã phải thú nhận tất cả mọi “tội”, kể cả những tội không phải của mình, ví dụ như “chống công thức, tìm cái mới” là “tội” của Lê Đạt. Nhất định thắng không thể “là một cuộc đánh thẳng vào tư tưởng của Đảng, trắng trợn và hung hăng” như Trần Dần đã tự xác nhận.
Tóm lại xung quanh bài Nhất định thắng có ba vấn đề:
– Tính mâu thuẫn trong tư tưởng Trần Dần
– Việc bắt buộc phải nhận tội dưới áp lực của Đảng.
– Bi kịch Trần Dần.
Nhất định thắng, như một tác phẩm văn học
Nhất định thắng trước hết là một bài thơ tuyên truyền, nhiều câu khẩu hiệu, có lẽ vì thế mà cả Hoàng Cầm lẫn Phan Khôi, hai người cực lực bênh vực Trần Dần, đều không cho Nhất định thắng là một bài thơ hay.
Nhưng nếu cắt những đoạn tuyên truyền máu mê thô thiển đi, như Hoàng Văn Chí đã làm thì Nhất định thắng trở thành một tác phẩm văn học giá trị. Bởi khi đem bi kịch riêng lồng vào lịch sử, Trần Dần đã có những câu thơ thật xúc động:
Tôi ở phố Sinh Từ
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
– Anh ạ!
họ vẫn bảo chờ…
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư?
Trời mưa, trời mưa
ba tháng rồi
em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã…
Em đi
trong mưa
cúi đầu
nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi
Khi nói đến tình trạng thất nghiệp ở miền Bắc, Trần Dần có những hình ảnh thơ mộng và nhức nhối:
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
– Anh ạ,
họ vẫn bảo chờ…
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư?
Trời mưa, trời mưa
ba tháng rồi
em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã…
Em đi
trong mưa
cúi đầu
nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi.
Khi nói đến nghịch cảnh chia đôi đất nước, Trần Dần có những lời thiết tha, đòi đoạn:
Tôi đã sống rã rời cân não
Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam
Những cơn mưa rơi mãi tối sầm
Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng
…
Tôi nức nở giữa trời mưa bão.
Họ vẫn ra đi.
– Nhưng sao bước rã rời?
Sao họ khóc?
Họ có gì thất vọng?
Đất níu chân đi
gió cản áo bay về
Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống
…
Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió
Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi
Tôi cúi xuống
quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ
Khổ nhiều rồi!”
Chính những câu thơ hay này đã khiến Nhất định thắng sống mãi trong lòng người dân miền Nam. Toàn bài phản ánh tâm sự mâu thuẫn của Trần Dần về tình hình đất nước, vừa nói lên cái khổ của người dân Bắc dưới chế độ cộng sản: tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà… nhưng lại mong miền Bắc thắng trong việc thống nhất đất nước. Hoặc khi nói về màu cờ: Trần Dần vừa thấy “mưa sa trên màu cờ đỏ”, nhưng lại cũng thấy “nắng lên đỏ phố đỏ cờ”, “cờ bay đỏ phố đỏ nhà”, và có lúc ông còn “cầm cờ đỏ hét hò vỡ ngực”.
Phần dở là những câu, những đoạn gợi căm thù: “Hôm nay hàng triệu mối thù sâu / Tới đập cửa lão già Ngô đòi mạng / Vung đao cùn chém phải quãng trời không“.
Phần hay là những đoạn nhân bản, nói lên những đau đớn của người dân đói khổ, thất nghiệp, ở Bắc; của người dân lìa bỏ quê cha đất tổ, đi Nam, và mong một ngày sẽ có hiệp thương, thống nhất, để hai miền cùng đọc tác phẩm và như thế độc giả sẽ tăng lên gấp bội.
Hoàng Văn Chí khi in Nhất định thắng trong Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, đã cắt những câu, đoạn, những lời sắt máu, oán thù, khiến bài thơ hay hơn, nhân bản hơn. Nhưng việc cắt xén này làm thay đổi ý nghĩa của bài thơ và lập trường chính trị của Trần Dần năm 1956, làm cho Nhất định thắng trở thành một tác phẩm chống cộng, được chính quyền miền Nam trưng dụng như một biểu tượng “tố cộng”. Và chính quyền miền Bắc dựa vào đó để buộc tội Trần Dần.
Bi kịch của nhà thơ là tác phẩm của ông, đã bị/được, bên này, bên kia gán cho những ý nghĩa không có trong văn bản, sử dụng để tung hô hay buộc tội. Độc giả miền Bắc, năm 1956, theo lời Lê Đạt, khi đọc Nhất định thắng, cũng chỉ giữ lại những câu hay nhất: “Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ”. Bởi nó đã nói lên được tâm sự của con người sống dưới chế độ cộng sản. Hậu thế sẽ nhớ đến Trần Dần qua hai câu thơ kiệt tác đó.
Thơ Văn Cao
Hai tác giả đích thực “có vấn đề” trong Giai Phẩm Mùa Xuân phải là Văn Cao và Lê Đạt, bởi họ đã nói đến thực chất của chế độ, đòi quyền tự do tư tưởng, tự do sáng tác, và chủ trương đổi mới văn học. Với bài Anh có nghe thấy không Văn Cao nói đến sự bế quan toả cảng tinh thần trong chế độ cộng sản, đến khát vọng tự do của con người:
Cửa đóng lại từ chín giờ
Không một cuốn sách chờ đợi (…)
Tất cả hướng về biển
Bọt cứ tan trên bãi cát xa
Mà cửa bể vẫn im lìm chưa mở
Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả
Những con người không phải của chúng ta
Vẫn ngày ngày ngang nhiên sống
Chúng nó còn ở lại
Trong những áo dài đen nham hiểm
Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người
Chúng nó còn ở lại
Trong những tủ sách gia đình
Ở điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm (…)
Chung quanh còn những người khôn ngoan
Không có mồm
Mắt không bao giờ nhìn thẳng (…)
Anh có nghe thấy không
Chỗ nào cũng có tiếng
Chưa nói lên
Những người của chúng ta
Đang mờ mờ xuất hiện
Le lói hy vọng
Trên những cánh đồng lầy
Nghìn năm cũ phủ mất nhiều giá trị
Đốt nghìn kinh chưa thắp sáng cuộc đời
Vào một cuộc đấu tranh mới
Với những người không phải của chúng ta
Anh có nghe thấy không
Vào một cuộc đấu tranh mới
Để mở tung các cánh cửa sổ
Mở tung các cửa bể
Và tung ra hàng loạt hàng loạt
Những con người thật của chúng ta
Giọng Văn Cao nhẹ nhàng, nhưng ý thơ quyết liệt: đòi tự do, lên án sự bưng bít của chế độ và kêu gọi mọi người đứng dậy tranh đấu đến cùng. Những lời đầu, mở vào không gian kín mít, không gian nghẹt thở sau khi cách mạng thành công:
Cửa đóng lại từ chín giờ
Không một cuốn sách chờ đợi
Dù những ngôi sao đang nở trên trời
Dù đêm mùa xuân bắt đầu trở lại
Đó là thứ không khí thiết quân luật. Cửa đóng. Không có sách hay không còn sách. Mặc dù sao –vàng– lấp lánh trên trời. Mặc dù mùa xuân đã đến. Mọi con mắt đều hướng ra biển –về phía tự do– nhưng cửa biển vẫn im ỉm đóng:
Tất cả hướng về biển
Bọt cứ tan trên bãi cát xa
Mà cửa bể vẫn im lìm chưa mở
Giọng ôn hoà nhưng không kém phần khắc hạch, Văn Cao trỏ thẳng bọn gian thần, bọn dốt nát, bọn kìm kẹp văn hoá tư tưởng, mắng và đuổi, khi nào “chúng nó” còn đây thì:
Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả
Chúng nó là ai? Nhà thơ trả lời: “Chúng là:
Những con người không phải của chúng ta
Vẫn ngày ngày ngang nhiên sống
Chúng nó còn ở lại
Trong những áo dài đen nham hiểm
Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người”.
“Chúng nó”, bọn áo thụng, len lỏi khắp nơi, từ trong tủ sách gia đình đến điếu thuốc trên môi đứa bé mười lăm, quẩn trong bước chân người con gái. “Chúng nó” nấp trong mọi lứa tuổi, mọi từng lớp xã hội, “chúng nó” trà trộn vào đời sống hàng ngày, làm ô uế không gian, lũng đoạn thời gian. Sách cũ, sách mới đem bán cân giấy lộn, đến cả những bài thơ mới nhất của Anh. Những kẻ “khôn ngoan” thì ngậm miệng “mắt không bao giờ nhìn thẳng”.
Nhưng Anh, người nghệ sĩ tự do, Anh có nghe thấy không?
Bọn chúng đã “đốt nghìn kinh chưa thắp sáng cuộc đời”.
Còn Anh, anh phải bước vào cuộc đấu tranh mới: mở tung các cửa bể, và anh phải tung ra những con người thật của chúng ta, để thay thế “chúng nó”, những con người giả.
Thơ Văn Cao là nộ khí trầm lặng của một nghệ sĩ bị giam hãm tư tưởng, của một kẻ sĩ can trường hạch tội gian thần. Giọng nhẹ nhàng nhưng tha thiết kêu gọi mọi người đứng lên đấu tranh cho tự do tư tưởng. Văn Cao là một nghệ sĩ và cũng là một kẻ sĩ.
Nhưng lạ lùng là cả triều đình và bọn nịnh thần không ai dám động đến Văn Cao. Chẳng lẽ họ không hiểu? Kể cả những người lắm chữ như Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi?
Dĩ nhiên là họ hiểu. Nhưng bởi Văn Cao là một tài năng lớn, trên tất cả “chúng nó”. Văn Cao là tác giả quốc ca. Chính bài quốc ca đã đỡ đòn cho Văn Cao trong toàn bộ hành trình Nhân Văn Giai Phẩm.
Thơ Lê Đạt
Lê Đạt là nhà thơ trẻ chưa có tên tuổi gì khi chủ trương Giai Phẩm Mùa Xuân, nhưng đường lối tranh đấu của Lê Đạt đã rõ ràng qua hai bài: Làm thơ và Mới.
Bài Làm thơ nói lên tâm trạng và hoài bão của một nhà thơ trẻ, trước tình thế đất nước:
Đêm khuya
Bóng đầu anh
Hằn lên trang sách nhỏ
Như bóng hàng cây
quặn gió
Lắng xuống mặt đường
Giông bão mênh mông
Anh nhìn Tổ quốc
Đất nước đêm nay trĩu đầu ngòi bút
Hàng vạn vần thơ mang nặng tình người
Anh nghe tiếng đất trời
Xao động lùm cây ngọn cỏ
Như hiệu thính viên
Đêm không ngủ
Ghi những lời cuộc sống
điện về
Những tiếng nặng nề
Những tiếng cục cằn uất ức
Những tiếng căm thù chua xót
Những tiếng yêu thương
Lê Đạt tự coi mình như một hiệu thính viên lắng nghe tất cả những tiếng đau thương do người đồng loại điện về và thầm kín nói lên tham vọng “Anh nghe tiếng đất trời” như một lãnh tụ. Năm 1956, với những câu thơ như:
Ghi những lời cuộc sống
điện về,
hoặ:
Óc anh là một công trường,
mỗi dòng thơ là một cây số mới,
hoặc:
Một tiếng súng tương lai
nổ vào đầu dĩ vãng
Lê Đạt là người đầu tiên làm thơ hiện đại ở miền Bắc, đã thực sự đưa ra cách suy nghĩ, cách tạo hình và kiến trúc tư tưởng rất mới. Trước đó có Nguyễn Đình Thi với bài Đất nước, nhưng ý thơ Nguyễn Đình Thi còn nằm trong không gian lãng mạn.
Lê Đạt còn là người đầu tiên đặt vấn đề nhà văn dấn thân – écrivain engagé: nhà văn không thể làm ngơ trước những khó khăn của dân tộc, của con người và của cuộc sống. Sự dấn thân này là tự thân Lê Đạt, không do ảnh hưởng của JP Sartre, vì năm 1956, ông chưa đọc Sartre và cả sau này ông cũng không mấy chú ý đến tư tưởng của Sartre.
Tóm lại, Lê Đạt là người có hoài bão chính trị cho dân tộc ngay từ những bước thơ đầu, khác hẳn với Trần Dần là nhà thơ “nổi loạn” chống lại mọi áp bức bó buộc bản thân, nhưng không có mục đích tranh đấu chính trị cho quốc gia dân tộc. Lê Đạt xác định một lần nữa, bản chất và nhiệm vụ của một nhà thơ dấn thân, phải đi vào cuộc sống, phải tìm cách thay đổi xã hội, xây dựng lại con người:
Người làm thơ nắng mưa thiêu đốt
ăn nằm với cuộc đời
Thai nghén đất trời
sinh ra sự sống (…)
Như người thợ
chui xuống lòng hầm mỏ
Moi than moi lửa
đốt sáng cuộc đời
Anh muốn Đảng gọi anh đến nơi
hội ý về cuộc sống
Điều động anh vào
bộ Tâm Hồn quần chúng
Giúp Trung Ương
xây dựng
những con người
Từng từng giọt mồ hôi
đẫm bản đồ chính sách
Anh mở lối giữa cuộc đời ngóc ngách
Óc anh là một công trường
Mỗi dòng thơ là một cây số mới
Trên con đường đi tới
xã hội
ngày mai
Một tiếng súng tương lai
nổ vào đầu dĩ vãng
Anh vác bút đi theo Đảng
xông lên hàng đầu
Năm 1956, khi chủ trương Giai Phẩm Mùa Xuân, Lê Đạt vẫn còn làm việc ở Tuyên Huấn, cạnh những cột trụ Trường Chinh, Tố Hữu. Lê Đạt chưa thể tách rời khỏi Đảng. Đoạn kết bài Làm thơ có những câu tỏ ý ông vẫn tin tưởng vào Đảng, một Đảng sẽ lành mạnh hơn, biết đặt văn nghệ sĩ vào những vị trí xứng đáng để họ có thể nhả tơ xây dựng lại đời sống con người. Đó là chiến lược của chính trị gia Lê Đạt, hay niềm tin của nhà thơ Lê Đạt? Khó biết.
Tố Hữu nhìn thấy những “nguy cơ” trong bài thơ thứ nhì của Lê Đạt, bài Mới, như một lời tố cáo, mạnh mẽ và quyết liệt của lớp đảng viên trẻ, muốn đổi mới văn học, muốn “đập cánh bay lên”, muốn chống lại “bao nhiêu gồng xiềng tập quán / cột lấy bước chân”, muốn chống lại những thành phần kỳ cựu đã sống quá lâu, trở thành những ông bình vôi, khép kín trong công thức, bị xỏ dây vào mũi:
Tôi mới hai mươi lăm tuổi
Chung quanh tôi bao cuộc đời mệt mỏi
Thất bại cúi đầu
Công thức xỏ giây vào mũi
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Ỳ như một chiếc bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại
Tôi đã sống rất nhiều ngày thảm bại
Khôn ngoan không dám làm người
Bao nhiêu lần tôi không thực là tôi
Lê Đạt nhìn quanh: một xã hội “công thức giả tạo”, với những ông bình vôi hủ lậu kéo dài cuộc sống và nhìn lại chính mình, còn trẻ, nhưng đã tự đánh mất mình, vì “khôn ngoan”, nên không dám làm người! Cuối cùng nhà thơ mạnh dạn đứng lên hô hào đổi mới toàn diện thi ca, xã hội và con người:
Mới Mới!
Luôn luôn Mới
Bay cho cao
Bay cho xa
Trên những vết già nua cũ kỹ
Trên lề đường han rỉ
Vượt ngày hôm nay
Vượt ngày mai, ngày kia,
Vượt mãi
Tố Hữu khó chịu nhất những câu thơ này, có thể coi là bản tuyên ngôn, là lời kêu gọi của Lê Đạt cho một đường hướng sáng tác mới vượt trên lối mòn cũ của các bậc đàn anh Xuân Diệu, Tố Hữu. Thấy sự nghiệp thi ca cách mạng của mình có thể bị chao đảo, sẵn quyền uy trong tay, Tố Hữu đã thẳng tay triệt hạ mầm mống nổi loạn đòi thay đổi cục diện văn nghệ, đòi “chôn đàn anh” của nhà thơ trẻ.
Phục xuống mà sáng tác
Theo Hoàng Cầm, sau khi Giai Phẩm Mùa Xuân bị phê phán, Trần Dần Tử Phác được về rồi, chúng tôi vẫn họp nhau ở phòng trà Phúc Châu: Văn Cao, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần, Tử Phác, Đặng Đình Hưng. Một hôm, bàn nhau: mình mới ra được Giai Phẩm Mùa Xuân, chỉ mới hoe hoe lên gọi là đổi mới một chút, mà nó đã đánh như vậy, liệu mình có chịu được không? Đéo thằng nào chịu được chuyện phê phán như thế, tức là chính quyền nó không cho mình ra một tờ báo nào hết. Thế thì Văn Cao mới nói một câu có thể ghi vào văn học sử: Nhưng quyền sáng tác là ở mình, vậy mình phải phục xuống mà sáng tác. Những chữ ấy chính là của Văn Cao: Phải phục xuống mà sáng tác.
Sau này khi phê phán Nhân Văn, họ cứ vin vào câu ấy mà đánh: Cái âm mưu của bọn NVGP nó kiên trì lắm: nằm phục xuống, tức là chúng nó nằm im, giấu mình một chỗ, để mà sáng tác chống Đảng. Họ phê phán Nhân Văn ghê gớm hơn phê phán Giai Phẩm nhiều, các ông văn nghệ sĩ chính cống như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi… rồi những nhân vật như Lê Đình Kỵ, Vũ Tú Nam, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ… nhất là Vũ Đức Phúc, lúc bấy giờ đã ở Viện Văn Học rồi, nhân vật này nó đánh Nhân Văn ghê gớm nhất. Bọn phê bình chỉ đánh theo khẩu hiệu, còn bọn văn nghệ sĩ nó đánh mới ác, đánh sâu sắc chứ không như bọn phê bình đâu, nó đánh ác mà trúng: Đại khái nó bảo bọn NVGP chúng nó không yêu gì Đảng cả, chúng nói yêu Đảng chỉ là nói giáo đầu, nói để đỡ đòn, chứ sự thực thì chúng chẳng yêu gì Đảng cả. Mà nó đánh như vậy là đánh trúng, đánh vào tâm mình, sự thực thì cũng không sai đâu.
Cho nên Văn Cao nói : Phục xuống mà sáng tác, thì tất cả chúng tôi đều tán thành, nó không cho mình ra báo thì mình phục xuống mà sáng tác: Trần Dần bắt đầu viết Cổng Tỉnh, Lê Đạt bắt đầu viết những bài thơ về quê hương, tôi viết trường ca Tiếng hát quan họ… Vậy, ngay từ năm 1956, sau Giai Phẩm Mùa Xuân, chúng tôi đã “phục xuống mà sáng tác” như lời Văn Cao7.
Giai Phẩm Mùa Xuân là tác phẩm đầu tiên ở miền Bắc chủ trương đổi mới thi ca, tự do sáng tác, với những khuynh hướng khác nhau: tuyên truyền theo đường lối cách mạng của Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Phùng Quán; nói lên tình hình nghèo khổ thất nghiệp ở Bắc và tố cáo tội ác Mỹ Diệm trong Nam của Trần Dần; đòi tự do tư tưởng và chửi bọn nịnh thần của Văn Cao; xây dựng một xã hội mới, một nền thơ mới của Lê Đạt.
Bài thơ quyết liệt nhất là của Văn Cao. Nhưng không ai dám đánh Văn Cao. Chế Lan Viên khai ngòi đánh Trần Dần, nhưng không dám đụng đến Văn Cao. Tất cả mũi dùi đổ vào Trần Dần, Lê Đạt, hai nhà thơ trẻ chưa nổi tiếng. Chính vì vụ đánh Trần Dần và Lê Đạt mà trí thức nhập cuộc. Lúc đầu trí thức chưa tham gia, nhưng việc đánh hội đồng Trần Dần, Lê Đạt khiến Phan Khôi trở lại vai “ngự sử văn đàn” với bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ.
Bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang đọc trước lớp học 18 ngày và bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi là hai yếu tố chủ chốt, đã thuyết phục Trương Tửu và những trí thức khác tham gia, tạo nên một phong trào rộng lớn: Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.
In trên Nhân Văn số 1, 8/1956. ↩
Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ, số 12, tháng 5/58, trg 60. ↩
Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI. ↩
Mùa xuân đến rồi đây ↩
Hoài Thanh, Vạch trần chất phản động của bài Nhất định thắng của Trần Dần, Báo Văn nghệ, Hà Nội, số 110 (1.3.1956), Lại Nguyên Ân sưu tầm. ↩
Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ, số 12, tháng 5/58, tr. 60. ↩
Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè. ↩