Gia đình – Những ngày thơ ấu

Giấy khai sinh của tôi ghi: sinh ngày 18 – 3 – 1930 tại làng Quần Phương Hạ, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Nguyên Quán: làng Thổ Khối, tổng Cự Linh, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. (nay thuộc phường Cự Khối, quận Long Biên, Hà Nội).

Làng Thổ Khôi nằm vắt ngang đê sông Hồng, ruộng ít, dân làng ít người sống bằng nghề nông, chủ yếu đi học, làm quan, làm viên chức, làm thuyền thợ hay buôn bán. Làng chỉ có một nghề truyền thống là làm vàng mã. Gái làng suốt ngày ngồi bẻ nan thoăn thoắt, phết hồ, dán giấy, làm thành những thoi vàng, thoi bạc dùng cho cõi âm. Làng ít ruộng nên dân xuất ngoại rất nhiều, ở đâu cũng có: Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Yên, Nam Định, Thanh, Nghệ, Tĩnh, Sài Gòn…vv..

Khi tôi sinh ra thì bố tôi đang giữ chức lục sự (Coi việc án từ ở các phủ huyện thời Pháp thuộc) ở huyện Hải Hậu. Ông đọc được chữ Hán và biết làm thuốc. Ông có nhiều sách chữ Hán, đều là sách thuốc Tầu. Có lúc tôi thấy ông mời hẳn một thày lang đến nhà để học nghề. Ông cũng thích làm thơ. Nhiều đêm, đã khuya, thấy ông thức dậy, thắp đèn làm thơ. Hồi ấy ông làm việc ở phủ Thái Ninh, tỉnh Thái Bình. ở đây có một viên tổng đốc về hưu tên là Nguyễn Năng Quốc. Ông này thường gọi một số viên chức trong phủ đến nhà uống rượu, ngâm thơ. Ông bố tôi xem chừng rất hào hứng chuẩn bị cho những buổi thơ phú thù tạc như thế. Tôi không hiểu thơ phú của ông có hay ho gì không, chỉ thấy tài hoa của ông thể hiện rất rõ ở các thú chơi như trồng hoa, thư pháp, đồ cổ, nuôi gà chọi, chim hoạ mi, các loại chó cảnh, mèo cảnh… Ông đặc biệt sành sỏi về nghệ thuật tỉa thuỷ tiên. Hàng năm cứ đến giáp Tết âm lịch ông lại lên Hà Nội mua về một sọt thuỷ tiên củ. Ông chọn lấy những củ cho là đẹp rồi ngồi cả buổi gọt tỉa bằng một mũi dao trổ. Phải tỉa như thế nào đó để khi thuỷ tiên trổ lá, trổ hoa thì dò hoa mọc thẳng vút trên cái nền lá quấn quýt uốn râu rồng. Lại phải làm sao cho hoa nở theo ý muốn của mình đúng vào đêm giao thừa. Trời lạnh thì áp đèn để thúc. Trời nóng thì lại phải cuốn giò hoa bằng giấy bản dấp nước để hãm. Có lần ông đã đem thuỷ tiên đi thi ở đình Hàng Bạc, Hà Nội và được ăn giải nhì. Lần ấy, tôi có được ông cho đi theo. Tôi nhớ giải là một bức trạm nổi trên gỗ thiếp vàng một đôi chim đậu trên một nhành mai. Ông cũng rất sành sỏi trong nghệ thuật trồng lan. Trên dàn hoa thì treo la liệt phong lan, dưới sân thì bầy hàng trăm chậu địa lan đặt trên đôn sứ hay bệ gạch. Tôi nhớ lõm bõm những cái tên địa lan rất đẹp: Đại Kiều, Tiểu Kiều, Bạch Ngọc, Mặc lan…vv.. Một trong những kỷ niệm của tôi thời nhỏ là luồn lỏi giữa những chậu lan, tìm bắt những con dế chui dưới chậu lan hay các khe của những bệ gạch. Ông cũng rất mê chim hoạ mi. Trong nhà, ngoài hiên la liệt những lồng chim. Cái to, cái nhỏ, có cái cao hàng vài ba thước, tất cả đều quang dầu. Suốt ngày ríu ran tiếng chim hót. Ông đặc biệt thích thú nuôi chim chọi. Phải biết chọn chim theo hình tướng: đầu thế nào, mắt thế nào, thân thế nào, chân, cựa thế nào…vv… Lại phải nuôi kèm chim mái để “ xuỳ” cho chim đực chọi nhau. Nuôi chim thì hết sức cầu kỳ. Gần đến mùa thi thì nước uống phải là nước sâm, thức ăn là gạo tấm tẩm lòng đỏ trứng gà rồi xấy khô. Tẩm đi tẩm lại đến khi nào hạt tấm có màu nâu xẫm mới thôi. Rồi phải tẩm bổ thêm cào cào, châu chấu, dế, thậm chí cả đông trùng hạ thảo… Hàng năm những cuộc thi chọi chim hoạ mi thường được tổ chức ở đình Ngọc Hà, Hà Nội. Ông bố tôi cũng nhiều lần đưa chim đi thi và được giải.

Bố tôi tính lành nhưng ham chơi. Cái gì cũng thích. Trà Tàu, thuốc lào, thuốc phiện, chơi hoa, chơi chim, chọi gà, nuôi mèo, nuôi chó, chơi hoành phi câu đối, đồ cổ, hát ả đào. Trong nhà, trong tủ bầy đủ cả: điếu ống, điếu bát, bàn đèn, các kiểu tẩu hút thuốc phiện, ấm chén cổ, lọ hoa, độc bình, đàn nguyệt, đàn đáy, trống chầu, dùi trống có khắc thơ Đường… Ông mê hát ả đào và mê cả cô đầu nữa. Mẹ tôi có lần nói, ông ấy mê gái đến không biết sợ là gì nữa. Có năm bệnh dịch phát triển ở địa phương. Đường xá vắng tanh, nhất là ban đêm. Người ta sợ quan ôn đi lùng bắt phu xuống âm phủ. Thế mà ông ấy vẫn cứ đi đến xóm hát như thường, không sợ gì cả.

Mẹ tôi đúng là điển hình của một bà vợ viên chức. Chẳng làm gì cả. Nấu ăn đã có đầy tớ. Bế bồng, chăm bẵm con nhỏ, đã có vú em. Chỉ thỉnh thoảng đi chợ, có con sen cắp rổ đi theo. Thường thường khi bố tôi đi làm thì bà cùng một số vợ viên chức khác họp nhau đánh tổ tôm, tài bàn. Bà rất thích nghe đọc truyện cổ và thuộc rất nhiều truyện nôm như Kiều, Nhị độ mai, Hoàng Trừu, Tống Trân Cúc Hoa, Phan Trần… Cho đến nay tôi vẫn còn nhớ hình ảnh này của bà: Cơm trưa xong, nằm nghiêng trên tấm phản quang dầu, nhai trầu và hút thuốc lá sâu kèn, nghe con gái – Chị cả tôi – đọc tiểu thuyết cổ, hết Chinh Đông, Chinh Tây, lại đến Tam quốc chí, Hán Sở tranh hùng, Phấn trang lâu, Bình Sơn Lãnh yến…vv.. Hàng năm bà thường đưa các con đi chơi các hội chùa: hội Phủ Giầy, Chợ Viềng Hải Lạng, đền Sòng, Phố Cát, hội Trường Yên…vv..

Tôi không thể không nói đến một người trong gia đình rất có ảnh hưởng tới tôi thời thơ ấu: bà chị cả tôi. Bà tên là Nguyễn Kim Hồi, hơn tôi đúng một giáp. Chị tôi thời con gái rất xinh đẹp, nhưng tính cách hết sức táo tợn. Cho đến nay, tôi chưa từng gặp một người con gái nào táo tợn đến mức ấy: dám vào lớp học đang giờ giảng bài, xin phép thầy giáo rồi đi thẳng đến một cậu học trò vừa trêu ghẹo mình, tát trái cho một cái rồi đàng hoàng đi ra; bố đi vắng, mời bạn trai đến nhà, đốt pháo đón mừng; thuê thuyền đi chơi trên sông với bạn trai; con gái mới mười sáu, mười bảy mà rất hách dịch: bắt đầy tớ lớn tuổi hơn mình xoè bàn tay ra, lấy thước kẻ đánh vì tội giặt quần áo, rũ không sạch mùi xà phòng; các em lười học thì phạt bằng cách vẽ vòng tròn dưới đất, bắt đứng đó không được bước ra ngoài khi chưa cho phép. Tính cách như thế khiến các em sợ hơn cả bố mẹ. Đặc biệt, con gái mà đi đánh ghen hộ mẹ: đưa đầy tớ đến nhà hát, đánh chửi cô đầu. Chị tôi rất mê thơ lãng mạn và các loại tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Thanh Châu, Ngọc Giao, Lan Khai, Lê Văn Trương…vv.. Hứng lên, ngồi một mình cũng cao giọng ngâm thơ sang sảng… Hồi gia đình tôi chuyển sang Phủ Nghĩa Hưng, Nam Định, có thuê một ngôi nhà lầu: chị tôi mua đủ thứ sách báo chất lên một căn buồng trên gác: Ngày nay, Tiểu thuyết thứ bảy, Hà Nội báo, Loa, Tri Tân, Thanh Nghị … và các loại thơ ca, tiểu thuyết kể trên. Bố tôi rất quan liêu, tuy cấm con gái không được đọc tiểu thuyết, nhưng không bao giờ lên gác để biết có cả một kho sách báo trên đó. Kho sách báo này đã là một thư viện phong phú và đầy hấp dẫn đối với tôi từ tuổi thiếu niên nhi đồng.

Tôi học tiểu học ở trường huyện. Học thì lười, chỉ ham chơi. Rất mê truyện kiếm hiệp, truyện cổ Tầu. Thích vẽ tranh phỏng theo những tranh minh hoạ trong các truyện, thích nhất vẽ hiệp sĩ múa gươm, phi thân lên mái nhà, và những ông tướng Tầu: Quan Công, Trương Phi, Lã Bố… ấy thế mà cũng có nhiều thằng bạn rất phục. Chúng phải đổi vài ba tờ giấy trắng để lấy một bức vẽ của tôi.

Tôi từ nhỏ đã không thích sinh hoạt tập thể. Bố mẹ tôi muốn cho tôi sinh hoạt trong đội Sói con (louveteau) của trường huyện: cắm trại, mặc đồng phục, hát đồng ca, nấu ăn chung, vui chơi tập thể…vv.. Tôi ở với họ nửa buổi rồi thừa lúc họ không để ý, lủi trốn về nhà. Tôi không thích sinh hoạt tập thể, có lẽ một phần vì ít tiếp xúc với người ngoài, nhát, vụng về trong giao tiếp, làm gì cũng lúng túng, chậm chạp. Nhưng quả thực từ nhỏ tôi đã có thói quen sống và chơi một mình. Mẹ tôi sinh tất cả mười một lần, nhưng chỉ nuôi được 6: hai trai, bốn gái. Anh tôi từ nhỏ đã được gửi cho một ông cậu làm giáo viên ở tỉnh Bắc Ninh kèm cặp cho. ở nhà còn lại toàn con gái, tôi chơi với ai được! Đành chỉ chơi một mình. Nghĩa là ngồi một mình, tưởng tượng ra đủ thứ chuyện phỏng theo những sách vở đọc được, đặc biệt là các truyện võ hiệp, truyện cổ Tầu, truyện tình lãng mạn…Tất nhiên bao giờ cũng biến mình thành một nhân vật chính trong đó. Phải nói rằng tôi từ nhỏ đã có một đầu óc rất giàu tưởng tượng đến mức như là bệnh hoạn, cứ nhắm mắt lại là lập tức như lạc vào một thế giới hoang đường nào.

Nếu không ngồi chơi một mình thì đi lang thang vớ vẩn ở phố huyện hay trên những cánh đồng, bờ đê, đường làng, ngõ xóm, bắt cào cào, châu chấu, chuồn chuồn, chui vào các đền miếu quanh vùng, trèo cây, hái quả, vừa đi vừa tưởng tượng. Tôi rất thích quả bàng chín. Nó có một vị ngọt ngọt chua chua rất riêng và một hương thơm riêng. Về sau này, ngẫm ra, tôi gọi đấy là hương vị của mùa thu. Ăn một quả bàng chín như nuốt vào trong bụng hương vị của mùa thu. Không hiểu sao tôi cũng rất thích mùi thuốc pháo và mùi hơi ét xăng ô tô. Hễ có xe ô tô đi qua trước nhà, thế nào cũng phải chạy ra hít lấy hít để… Sau này đọc bài Tựa Tây Sương của Thánh Thán, thấy ông kể ra la liệt các thứ khoái trên đời, trong đó có cái khoái ngửi mùi thuốc pháo. Té ra cái khoái của tôi cũng không phải là cá biệt.

Thấm vào tâm hồn tôi cho đến mãi bây giờ là cái gọi là không khí những phố huyện, phố phủ ngày xưa: ấy là một đoạn đường đất hoặc rải đá khoảng ba bốn trăm mét, hai bên có vài hàng cơm, hàng phở, quán nước, một trạm dây thép, một trạm y tế, vài cửa hiệu tạp hoá, xa xa nơi đầu phố hay cuối phố là một trường tiểu học. To tát oai nghiêm hơn cả là dinh quan huyện, ngoài cổng có lính gác. Ra vào cửa quan là mấy thầy thừa, thầy lục, mấy ông xã, ông lý ở các làng lên hầu kiện, mấy anh nho lại áo the, khăn xếp, cắp ô. Tỏ ra bận rộn hơn cả là mấy chú lính cơ, lính lệ chạy ra chạy vào. Văn minh nhất huyện là mấy thầy giáo cấp một thường vận Âu phục, đi đứng nghiêm trang. Quan huyện thì dường như là người của một thế giới khác. Đi đâu có trống báo hiệu và chỉ thấy một chiếc xe ô tô hòm kính lướt nhanh qua phố huyện.

Nói chung phố huyện là một cảnh sống đơn điệu, quẩn quanh, nhạt tẻ. Buồn vắng hơn nữa là về ban đêm. Các cửa hàng đèn dầu leo lét, tù mù giữa cảnh đêm tối thăm thẳm.

Phố huyện thường xa thành phố, gần nông thôn. Kề ngay phố huyện là đồng ruộng, làng mạc, là bờ tre, nương dâu, là cánh cò, cánh vạc, con trâu kéo cày, là những dân quê lam lũ chân lấm tay bùn… Cho nên từ huyện lên tỉnh thì cũng coi như là từ nhà quê ra tỉnh.

Môi trường sống thời thơ ấu có ảnh hưởng rất quan trọng đối với năng lực cảm thụ văn chương của tôi. Từ những thú chơi cổ điển của ông bố tôi, tôi rất dễ cảm nhận được vẻ đẹp “ vang bóng một thời” của văn Nguyễn Tuân. Và cảnh làng quê, cảnh phố huyện đã khiến tôi dễ nhập thân ngay vào thế giới nghệ thuật của những Thạch Lam, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Đỗ Đức Thu, Bùi Hiển, Tô Hoài, Huy Cận, Nguyễn Bính, Hoàng Cầm…vv.., thế giới của những phố huyện nghèo, của những nhân vật quan lại, lính tráng, viên chức nhỏ, hương lý, của những cảnh sông dài trời rộng, những bến sông hoang vắng, của linh hồn đồng quê cổ kính, bình dị miền Bắc bàng bạc một chất thơ buồn… Đó cũng là cái buồn của ca dao, của chèo. Đọc một câu ca dao, nghe một làn điệu chèo, bao giờ tôi cũng thấy hiện lên trong trí tưởng tượng của mình cảnh đồng quê heo hút ngày xưa khiến nhiều khi chảy nước mắt.

Trí nhớ của con người ta có những quy luật riêng của nó mà con người không ý thức được, không làm chủ được. Có những hình ảnh rất xa xưa và không có ý nghĩa gì cả, tự nhiên cứ hiện lên trong trí nhớ của ta, có thể gọi là những hồi ức ngoài ý muốn (mémoires involontaires). Tôi thường có những hồi ức như vậy. Chẳng hạn, bỗng nhớ một ông già tên là Xã An, mặc quần trắng, áo dài trắng, có những cái khuy cài nâu nâu màu hổ phách. Không hiểu sao lại nhớ cụ thể cả tên ông ta, tuy không biết ông là ai. Gần đây hỏi chị tôi, chị tôi cho biết, ông Xã An là chủ ngôi nhà cha mẹ tôi thuê hồi bố tôi làm việc ở huyện Hải Hậu (Nam Định). Lúc đó tôi chỉ độ năm, sáu tuổi. Trong trí nhớ của tôi cũng hay hiện lên hình ảnh một khu vườn rau vào mùa thu. Có những luống cải thưa thớt, xác xơ, mấy cái ngồng cải cao vọt lên với những bông hoa nở vàng. Vài con bướm trắng bay chập chờn quanh những bông hoa. Rồi hình ảnh người vú em, tuy đã luống tuổi, nhưng chúng tôi vẫn gọi là Chị – Chị Đại. Chị có một cái nốt ruồi lớn ở dưới mắt phải. Chị vừa quét sân vừa đọc ngân nga mấy câu lục bát để đùa ghẹo tôi:

Nước Hải Lạng vừa trong vừa mát,
Đường Hải Lạng lắm cát dễ đi
kia xinh đẹp làm chi
Để cho câu M. trở đi trở về…

Lúc này, bố tôi đã chuyển về làm việc ở phủ Nghĩa Hưng (Nam Định). Tôi đã hơn 10 tuổi. Vào dịp đầu xuân, Hải Lạng (thuộc phủ Nghĩa Hưng) mở hội, có đấu cờ người. Mỗi quân cờ là một cô gái đồng trinh cầm một cái biển có ghi chữ Tướng, Sĩ, Tượng…vv… Những cô được chọn cầm biển tướng, sĩ là những cô xinh đẹp hơn cả. Hầu như năm nào tôi cũng cùng gia đình đi xem hội làng Hải Lạng. Chúng tôi đi thuyền xuôi từ thị trấn Nghĩa Hưng tới Hải Lạng, kề ngay bến sông. Một hình ảnh khác cũng thường trở đi trở lại trong trí nhớ của tôi: một người đàn bà ăn mày, rách rưới, mắt loà, bước rờ rẫm lên hè nhà tôi trông ra chợ phủ Thái Ninh, vừa bước đi, miệng vừa ngốn một ngọn rau muống. Lúc này bố tôi đã chuyển tới làm việc ở phủ Thái Ninh (Thái Bình). Tôi đã 13, 14 tuổi…vv… Những hình ảnh ấy chẳng có ý nghĩa gì. Chúng chỉ gợi lên không khí của một thời rất xa xưa một đi không trở lại. Và tôi cảm thấy buồn, một nỗi buồn vu vơ. Những cảnh ấy nay còn không? Những con người ấy chắc đã chết cả rồi! Hồn họ đang ở đâu? “Hồn ở đâu bây giờ!” (Vũ Đình Liên)

Nhưng có những kỷ niệm cũng rất vụn vặt thôi, và cũng hiện lên trong trí nhớ tôi một cách tự phát, mà sao cứ ám ảnh sâu sắc và có tác động rất lớn, rất lâu dài tới tâm lý, tính cách của tôi. Nói đến những kỷ niệm ấy, tôi thấy nhất thiết phải kể đến chi tiết này- một chi tiết rất nhỏ, có thể nói là chẳng có nghĩa lý gì, vậy mà sao nó cứ theo đuổi tôi đến tận bây giờ và có lẽ cho tới khi nhắm mắt. Một chi tiết thực sự có ảnh hưởng đến cá tính, tính cách của tôi: hồi đó tôi mới khoảng 11, 12 tuổi gì đó, có một lần ông bố tôi sai tôi múc cho ông một thau nước rửa mặt. Tôi múc vài gáo nước vào thau rồi bưng đến cho ông. Nhìn vào thau, thấy ít nước quá, ông nhăn mặt: “Cái thằng, sao bủn xỉn, bần tiện thế!”. Đấy, chi tiết chỉ có thế thôi, thế mà tôi cứ ấm ức, xấu hổ và rất tự ái, thấy mình bị coi là bần tiện, là bo bíu, là tiểu nhân, là không đường hoàng, nói chung là đáng khinh bỉ, chẳng làm nên trò trống gì …Từ đó, có thể nói, mọi hành vi của tôi trong sinh hoạt đời thường hay trong công tác, trong cách ứng xử với người này người khác, trong hoạt động văn học…vv… đều là những cố gắng sao cho người đời đừng khinh mình là keo bẩn, tiểu nhân, không đường hoàng… Dù nghèo túng không bao giờ lèm nhèm trong chuyện tiền bạc. Việc không làm được thì tránh không làm. Phát biểu hay viết lách về cái gì, phải biết đến nơi đến chốn, biết đến đâu, nói đến đấy và phải có ý kiến riêng, không được thế thì thôi, không nói, không viết. Không cầu cạnh người sang, người trên để họ có thể khinh mình. Trời cho cái gì thì hưởng cái đó, không cay cú, cố đấm ăn xôi, không xin xỏ, hay tranh cuớp của ai… Nói chung tôi quan niệm được làm chủ bản thân mình là sướng nhất. Vì thế không làm bất cứ điều gì vượt quá thân phận, tầm vóc, khả năng của mình để rơi vào bị động, mất tự do, tự chủ và bị thiên hạ khinh bỉ. Tôi rất thích dùng hai chữ sang trọng là vì thế. Sang trọng đối lập với nhếch nhác, hèn hạ. Nghèo mà vẫn sang. “Phó thường dân” cũng có thể sang. Thậm chí kém cỏi vẫn có thể sang, nghĩa là tự chủ trong phạm vi khả năng của mình, tránh không bị khinh tức là sang. Và tôi đã viết một bài “ Về khái niệm sang trong đánh giá văn học”.

Một kỷ niệm khác cũng có ảnh hưởng lớn tới tâm lý, tính cách của tôi: chuyện tập xe đạp. Không hiểu sao tôi lại khốn khổ đến vậy trong việc tập đi xe đạp. Hồi mười ba, mười bốn tuổi, học cấp II ở thành phố Nam Định, tôi đã cùng mấy thằng bạn ở chung một nhà trọ tập đi xe đạp. Trèo lên xe, đạp mấy vòng, nhưng cứ hễ thằng bạn giữ hộ xe buông tay ra là ngã đổ kềnh ra đất. Tập mãi không được, đã thế lại còn bị toạc một mảng thịt ở ống chân, đến nay vẫn còn vết sẹo. Sợ quá không dám tập nữa. Một chuyện ai cũng làm được, kể cả đàn bà con gái hay đứa trẻ sáu bẩy tuổi, vậy mà mình không làm được. Nhục quá! Hèn kém quá! Điều này khiến tôi luôn có tâm lý bi quan về năng lực của mình. Nghĩa là thấy mình bất tài, bất lực, chẳng làm nên trò trống gì. Cho nên bị ai coi thường, tuy cũng tức, nhưng liền đó lại tự thấy: nó khinh mình cũng phải thôi. Mình là thằng hèn kém, nó khinh cũng chẳng oan ức gì.

Không thể tưởng tượng được cái nhục không biết đi xe đạp của tôi kéo dài cho mãi đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc (1954). Lúc ấy tôi đã 24 tuổi. Trong chiến tranh, mấy ai có xe đạp mà đi. vì thế không biết đi xe đạp, chưa thấy bức xúc lắm, và cũng không ai biết. Nhưng hoà bình rồi. Không biết đi xe đạp thì nguy quá. Mà lộ ra thì xấu hổ chết được! Tôi quyết định, nhất định phải tập, mà phải tập một mình, tập dấu, tập bí mật. Đợi lúc đêm xuống, tôi thuê một cái xe đạp, dắt đến một chỗ vắng vẻ có đường dốc, rồi ngồi lên xe thả cho nó lao xuống và cứ thế đạp phứa đi. Sau nhiều lần ngã, tôi đi được xe đạp. Sướng quá! Thế là có quyết tâm thì cũng không đến nỗi kém cạnh ai. (Hồi này gia đình tôi ở một vùng ven thị xã Thái Nguyên)

Có lẽ vì chuyện này mà tôi một mặt vẫn bi quan về năng lực của mình, nhưng mặt khác cho rằng có quyết tâm thì cũng có thể vượt lên được. Đồng thời tôi có tâm lí dễ dị ứng với những người có thái độ tự mãn và rất thông cảm với những người bị đời khinh bỉ. Sau này trong học tập và nghiên cứu khoa học, tôi luôn luôn gắng sức, cố vượt lên bản thân mình một cách âm thầm lặng lẽ. Tuy vậy khi có ai đó đánh giá cao tài trí của mình, tôi tuy cũng thích, nhưng không bao giờ tỏ ra hí hửng, thậm chí vẫn cứ ngờ ngợ: “Chẳng lẽ mình mà cũng có tài thật sao!”

Xin nói thêm về một nét tính cách này mà tôi tự nhận thấy đã có từ nhỏ: thực chất thì hèn nhát, nhưng lại muốn tỏ ra là dũng cảm. Chẳng hạn, vào các đền miếu bỏ hoang, phá phách các đồ thờ cúng, lấy những cây gươm thờ múa may chơi. Có khi đái cả vào bát hương. Những trò quậy phá ấy chẳng chết ai, vậy mà cũng làm cho một số đàn bà, con gái hoảng sợ và nể phục. Đúng là thứ anh hùng rơm.

Sau này lớn lên, tôi thích ăn nói ngang ngược, nhưng chỉ dám nói trong phạm vi một công chúng vốn hâm mộ mình hoặc đồng tình với mình hay không có khả năng hại được mình. Viết lách cũng thế. Không muốn nói xuôi chiều, thích gai góc một chút, nhưng cũng chỉ trong giới hạn không nguy hiểm lắm đến bản thân mình và vừa đủ cho một số người yếu bóng vía phải nể trọng.