Đúng là có một tổng hành dinh chuyên phát tin hậu cung tuyệt mật. Ba ngày sau, Trường Chinh lên tiếng phê phán Liên Xô rút tên lửa. Dặn vớt là vẫn phải giữ thái độ thân thiện với Liên Xô… Tôi viết hồi ký Trường Chinh với tâm trạng rã rời và trong khung cảnh thất bại ê chề ấy. Về tình cảm cá nhân tôi bị một mất mát lớn: Trường Chinh đã đổi dòng. Ông mà lại theo Mao muốn Xô, Mỹ choảng nhau cho ruồi muỗi chết!
Tôi gửi lên Trường Chinh bản hồi ký viết không hồn kèm một thư rất ngắn. Đọc thư này, Thép Mới chớp chớp mắt nói: – Sao thư mày viết lạnh thế mày?
Tự nhiên nó lạnh thế. Có thể nói đây là một thất tình của tôi với Trường Chinh, cũng là mối thất tình đầu tiên trong đời. Chợt thấy như bị vét trắng túi! Vét nhẵn cả đến cái “tâm sự” tôi ngỡ nhìn ra thấy ở anh tối hôm cuối cùng ở Bãi Cháy. Đúng ra đó là tâm sự của tôi trá hình sang làm tâm sự anh. Tôi đang mong đảng cự tuyệt xu thế tả lộng hành xưa nay trong đảng. Và nhất là nay nó đang rầm rầm rộ rộ phủ bóng đen của nó lên toàn bộ sinh hoạt của đất nước. Chiến tranh hớn hở đến gần và cái phao tôi bám vào đã nổ đánh bụp.
Hồi ký và thư tôi không có trả lời. Im bặt. Hoặc là: l) viết quá tồi, không thể dùng được. 2) Trường Chinh không cần đến hồi ký nữa. Viết hồi ký là Trường Chinh muốn phất một ngọn cờ tập hợp. Lúc dự định viết, ông quá biết ông có chỗ dựa ở Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp vốn cùng chung quan điểm với ông. Nhưng ông không ngờ Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh… đã có thể gay gắt đến thế với việc Hồ Chí Minh không biểu quyết. Và ông bằng lòng điểm chỉ vào Nghị quyết 9 làm “bố dượng tinh thần” như tôi nói. Vậy thì chả còn lý do để cho hồi ký của ông ra mắt nữa! Mấy năm sau này ông có gọi mấy nhà báo đến như Lê Điền, Bùi Tín để viết nhưng tôi nghĩ ông chỉ cốt để phía Lê Duẩn không nghi ngờ ý định “phất cờ tập hợp” bằng hồi ký mà ông định viết từ 1962 nhắc lại bộ ba chủ chốt Hồ Chí Minh – Trường Chinh – Võ Nguyên Giáp trên Pắc Bó, Tân Trào. Ông nhờ mấy nhà báo kia vì họ đều rất sùng bái Duẩn. Tôi bảo Trường Chinh quy hàng nhưng với ông thì ông đã gương mẫu chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, cá nhân phục tùng đa số, cấp dưới (như ông, Chủ tịch Quốc hội) phục tùng cấp trên (như Lê Duẩn, tổng bí thư.)
Mấy hôm sau, gặp tôi ở sân báo, Quang Đạm bóp bóp tay tôi nói: – Mình vừa lên anh Năm (tức Trường Chinh) về, anh Năm bảo sao Trần Đĩnh lại sa đọa chính trị thế?
Tôi nghĩ thầm: chẳng biết ai sa đọa! Mới hôm nào ông thư cho tôi tán thành với tôi là ta tắp lắp của Trung Quốc quá nhiều, nguyên nhân vì ta yếu lý luận và kém tổng kết kinh nghiệm. Vâng, cải cách ruộng đất làm cho ông điêu đứng thế mà ông lại quên ngay bài học.
Trong khi đó, tôi vẫn nghe Quang Đạm nói “với riêng mình thì mấy đứa sống với nhau từ trên rừng mình muốn nói với Trần Đĩnh rằng Trần Đĩnh có thể chửi mình thế nào cũng được thế nhưng Trần Đĩnh chửi Mao Chủ tịch thì mình đau lòng lắm.”
Tôi rút tay ra quay đi.
Tại hội trường Ba Đình, tháng 1 – 1964, trước các cán bộ cao và trung cấp học tập nghị quyết 9, Trường Chinh tuyên bố đại ý: Đảng ta và Nhà nước ta về cơ bản thống nhất với đường lối đối ngoại và đối nội của Đảng Cộng sản và nhà nước Trung Quốc.
Tôi nghe Nguyễn Thành Lê thông báo tin này ở cơ quan mà tưởng sụp đổ. Ngỡ như Nguyễn Thành Lê chủ yếu chỉ nhằm bảo điều đó với riêng tôi.
Sau đó tôi gặp Trần Châu. Anh nói hôm qua Hoàng Minh Chính bảo anh là Chính đã có phát biểu bác bỏ tại chỗ ý của Trường Chinh. Tôi liền thốc ngay tới Chính. Anh cho hay tại hội nghị phổ biến Nghị quyết 9 ở trường Nguyễn Ái Quốc, Trường Chinh giới thiệu nghị quyết, Hoàng Minh Chính đã đứng lên bác lại. Vặn ngay Trường Chinh: Hội nghị trung ương 9 không đủ tư cách xóa nghị quyết đại hội 3 năm 1960. Phải là một đại hội đảng mới bỏ được đường lối xây dựng hòa bình ở miền bắc, chiếu cố miền nam. Chính nói đánh Mỹ sẽ là cưỡi lưng cọp dữ chứ không phải cưỡi cọp giấy đâu.
Kể lại với tôi Chính còn cười: – Thế không phải cưỡi lưng cọp dữ thì là cưỡi bò đi chơi à? Mao bảo toàn thế giới căng đế quốc Mỹ ra mà đánh nhưng Mao cấm dân Trung Quốc đổ máu, người ta khôn thế chứ đâu dại như… ta.
Tôi bắt tay Chính rất chặt và nói: – Đúng, đâu có phải là cưỡi bò. Mao rất giỏi dụ âm binh. Lò gang thép này, làm công xã này, diệt chim sẻ này, đều cả nước rầm rộ làm… Nhưng đánh Mỹ thì bảo đứa khác. Cũng như hiếu chiến thì lại chửi Mỹ phá hoại hòa bình. Nay nơi dễ xúi cho choảng nhau hơn cả là Việt Nam sẵn có hai miền và đêm không ngủ ngày không ăn!
Lúc ấy có một chỗ kẹt ghê gớm. Đảng hết sức bí mật chuẩn bị chiến tranh, ngay Nghị quyết 9 cũng có hai phần, phần hai mới nói về đánh Mỹ nhưng tuyệt mật chỉ phổ biến đến một bộ phận nhỏ cán bộ cao cấp cho nên chúng tôi không thể vô bằng vô cớ đùng đùng kêu lên phản đối chiến tranh! Ai chiến tranh? Đảng bảo vệ hòa bình cơ mà? Có đánh Mỹ đâu mà đảng tranh luận với chúng tôi chuyện nên hay không nên đánh. Đảng chỉ chống chủ nghĩa xét lại, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lê thôi! Rồi nữa, nếu có chủ trương đánh thật thì sao anh lại biết được “bí mật Nhà nước “? Anh thế là tỏi rồi.
Trong khi hết lời ca ngợi phản chiến ở Mỹ thì tại sao trừng trị chúng tôi ác nghiệt đến thế và đặc biệt trước sau không bao giờ nêu tội danh phản chiến của chúng tôi ra? Kìa, nêu ra để mà lộ ý định phát động chiến tranh hay sao? Hơn nữa, để cho tia lửa phản chiến của chúng tôi có cơ lan nhanh đi khắp đất nước ư? Chụp cho chúng mày cái tội tay sai lật đổ hèn hạ là hay nhất.
Tôi bảo Chính tôi quá thất vọng về Trường Chinh. Chính hơ hơ cười: – Mình thất vọng hơn ấy chứ. Chính ông ấy nhờ mình viết cho ông ấy diễn văn đọc ở Đại hội 22 ca ngợi chung sống hòa bình mà. Lúc đứng lên ở giữa hội trường bảo đánh Mỹ là cưỡi cọp dữ chứ không phải cọp giấy, mình nhìn xoáy vào ông ấy thế này như định hỏi: “Sao hôm nay đồng chí nói
khác?”
– Thế nét mặt ông sao?
– Ông ấy nhìn lại… Ông ấy thì kín lắm…
* * *
Xuất hiện bài vè phân hạng xét lại ở báo Nhân Dân:
Trần Châu, Trần Đĩnh, Hồng Hà,
Khánh Căn, Hữu Chỉnh, Cộng Hòa, Hồng Thao,
Chính Yên, Lưu Động cũng vào…
Và một số tên nữa.
Thế ra tôi “á hậu” 1, Hồng Hà “á hậu” 2. Rồi nhờ quay lưỡi “nhất trí,” á hậu 2 vào Ban bí thư trung ương đảng.
Hoa hậu và á hậu 1 thì khốn đốn…
Mao – nhều ngâm và bình ran ran ở cơ quan báo cái cao siêu của “Nhật ký đường về” của Tố Hữu mới ra mắt, chiếm gần một phần ba trang nhất báo Nhân Dân. Nó hoá thành đỉnh thơ ca và ngang với sấm Cụ Trạng. “Hạ cho Cẩm Ly một câu thành trì lặng im là tiêu ma mẹ nó cu cậu rồi…,” “Hay, rủ Castro theo bằng câu ‘Có về Nam Hải với anh thì về’, quá hay. Xưng là anh quá đúng.” Lúc ấy có ý cho rằng Castro bị Liên Xô úm.
Hay véo von nhất hai câu: “Bên đây biên giới là nhà, Bên kia biên giới cũng là quê hương.”
Một bữa tôi hỏi móc một Mao – nhiều: – Này sao không đọc “Bác Mao tuy rất xa, Bác Hồ ta đó ấy là Bác Mao?.”
– Đọc chứ! – Đọc luôn và sau đó hất đầu hỏi: – Có biết bài này còn hay hơn nữa không? “Mao Trạch Đông! Tôi đã thấy: Dáng người cao lồng lộng, Đẹp như một ngọn cờ Hồng, Trên mặt người, mặt đất mênh mông.” Còn nhiều nữa, nghe không? Ừ, anh Lê Duẩn viết sao? “Tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng Lê-nin của thời đại ba dòng thác cách mang Á – Phi – La…”, đọc đi chứ, văn bản tất độc cơ mà, đọc thuộc lòng vào.
Khương Hữu Dụng kể khi làm việc tái bản tập thơ “Ta đi tới” của Tố Hữu, anh rất ngạc nhiên thấy Tố Hữu gạch chéo chữ thập lên khổ thơ “Hoan hô đại tướng Võ Nguyên Giáp” rồi nói “Bỏ đi, người này hết vai trò lịch sử rồi.”
Trước khi ra tay đổi tiền năm 1985 làm tan hoang cuộc sống của dân nước, Tố Hữu đã giơ tay đổi ghế. Những ngày tháng ấy nổi bật lên trên mặt trận tư tuởng là Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu. Thanh có một bài nói làm cán bộ quá ư xôn xao. Vì tầm chửi rủa cay độc, phũ phàng và rải thảm của nó.
Chính Yên đã đưa tôi đến nhà Nguyễn Khắc Tiếp đọc bài báo nảy lửa này.
Một ấn tượng bao trùm: kinh sợ! Sao có thể thù ghét những cái vui nho nhỏ của kẻ khác đến thế? Sao tự cho mình có quyền vọc tay vào đời người khác như thế? Sao cho phép mình làm phán quan lập trường, đạo đức để ngạo mạn lên án người khác như thế?
Bài nói rất dài. Chính Yên đọc hơn một tiếng. Chíếc mùi – soa cô con gái thôn quê mua làm nơ buộc tóc cũng bị rủa là “học đòi tiểu tư sản,” văn công lên diễn sao cứ phải phấn son? Trừ phi diễn cho nước ngoài thôi chứ còn thì cứ là diễn mộc, mặt thế nào thì lên sân khấu cứ để nguyên thế ấy! Bà tướng, vợ Phạm Kiệt cũng bị chửi là “đỏm dáng như khỉ.”
Nhà Tiếp ở cách hàng vàng giả Mỹ Ký xưa kia chút ít. Ở Tiếp về sau đó, tôi bảo Chính Yên: – Xưa có một Mỹ Ký và họ nhận họ hàng giả, nay la liệt Mác Ký nhưng đều nhận Mác thật.
Cụ Hồ đã yêu cầu thu hồi bài nói. Vài năm sau Hồng vệ binh Trung Quốc cũng nói y thế. Nguyễn Chí Thanh đánh phá ác liệt tiểu thuyết “Phá Vây” của Phù Thăng vì có câu “hoà bình là nguyện ước của vạn vạn con người.” Rồi “vào Đời” của nhà văn quân đội Hà Minh Tuân. Thép Mới, Như Phong bảo tôi viết phê bình. Tôi nói Tuân bị chê mãi là “tô hồng” thì nay sửa bằng bôi đen tí ti đi chứ có gì đâu mà phê?
Sáng sau Như Phong hớn hở đến nói mày thôi, để tao viết. Như Phong là cựu Văn hóa Cứu quốc nhưng nay cũng ở danh sách những người mê Mao, sùng bái Mao, Mao – nhều, bảo tôi: – Tối qua ông Thanh gọi tao đến nói đây là thuốc độc, anh phải vạch trần ra.
Như Phong viết “vào Đời, chén thuốc độc.” Bại hoại, tan một đời Hà Minh Tuân. Đọc đầu đề bài báo, tôi bảo Như Phong: – Thuốc độc là của ông Thanh còn chén chứ không thìa hay bát thì do dược sĩ Như Phong quy định!
Như Phong hi hí cười: – Thuốc độc thì một chén đã là đủ đô rồi còn gì nữa hả mày!
Sau bài báo này Như Phong lại được dùng rồi sang báo Văn Nghệ. Nhưng cuối những năm 70, chính anh đã bảo tôi: – Mày nhìn rõ lão Mao rất đúng và rất sớm!
Giữa năm 1963, Nguyễn Chí Thanh có bài đăng trang nhất báo Nhân Dân kêu gọi tiết kiệm lương thực. Hợp tác xã cha chung không ai khóc, năng suất thấp, thóc gạo thiếu, biện pháp duy nhất thích hợp là bóp miệng lại, Thanh nay liệt bún vào bảng xa xỉ phẩm. Viết hẳn: Tại sao phải ăn bún?
Lúc Tố Hữu mở bữa thịt chó khao in tiểu sử Cụ, chưa hợp tác hóa nông nghiệp, bún ê hề, Thanh ca ngợi thiên tài bếp núc dân tộc thể hiện ở tổ hợp bún, thịt chó, mắm tôm. Từ ngày hợp tác hoá nông nghiệp, quản lý hết thóc gạo thịt thà, kể cả chó, thiên tài bếp núc gần như tiêu ma. Một cá nhân bèn dám lớn tiếng truy hỏi dân tộc: “Sao phải ăn bún?” và nổ bộc phá vào nền móng thiên tài ẩm thực dân tộc!
Sau phải có chế độ đổi tem gạo lấy bún để duy trì tổ hợp thiên tài.
Đọc xong bài báo của một cá nhân dám lên tiếng truy hỏi dân tộc: “Sao phải ăn bún?” tự nhiên tôi sang buồng Thợ Rèn, hỏi lại chuyện dạo nào Thợ Rèn theo thư bạn đọc làm một bài “chuyện lớn chuyện nhỏ “phê một xe hơi chở mấy cậu ấm chạy chơi trên bãi biển Sầm Sơn đang buổi tắm đông người. Bài có chú thích hẳn số xe hơi. Đúng hôm báo đăng, hai anh công an đến gặp Thợ Rèn hỏi tại sao anh đả kích cái xe có biển số kia. Rồi cho biết cái xe đó là của anh Thanh. Phải cảnh giác bọn phản động bôi nhọ lãnh tụ. Chúng tôi đem thư về nghiên cứu bút tích tìm kẻ tố cáo.
Tôi thấy Nguyễn Chí Thanh lần đầu ở chiến dịch Vĩnh Phúc, 1951. Ở mặt trận về Tổng cục Chính trị tiền phương, đến một đầu lũng nhỏ, tôi chợt nghe thấy tiếng thú gầm gừ và tiếng vật lộn. Rẽ vào một tràn ruộng cạn, tôi chậm chân lại: một người quần áo nâu đang vật nhau với một con béc – giê to tướng. Người nằm dưới gạt đầu chó ra nhìn tôi – kẻ phá quấy – rồi lại tiếp tục cuộc đọ tài cao thấp. Tôi nhận ra một khuôn mặt vuông vức, xám đen, dân dã nhưng oai. Vào Cục tuyên huấn, tôi hỏi Tử Phác đang trực ở đó rằng ai ở đây mà Tây thế, vật nhau với béc – giê? Tử Phác thủng thẳng: – Ông tướng nông dân Nguyễn Chí Thanh, người vẫn phê bình cán bộ đến cà phê cô Hạ Cao Vân là hoà bình hưởng lạc đấy!
Năm 1964, tôi đi với hai nhà báo Trung quốc Luo Lie và Xi Hong Shi vào Vĩnh Linh. Khi trở ra, tôi đến Nguyễn Tuân. Anh hỏi thăm ông chủ nhiệm Nhà giao tế Đồng Hới còn không. Rồi hạ giọng hỏi: – Ông hay gần các ông to, tôi xin hỏi ông là có thật anh Thao (Nguyễn Chí Thanh) thanh đạm như vẫn đồn không? Tôi nói tôi không rõ ông này. Tuân bèn nói: – Lần ấy mình dẫn Pierre Abraham của tờ Nouvelle Critique vào trong đó. Đến Nhà giao tế, nhòm vào tủ rượu, mình thấy hai chai săm – banh Moet & Chandon thì mừng quá bèn khen xừ chủ nhiệm chuẩn bị đến cho cả rượu ngon của Pháp cho khách quý Paris. Xừ chủ nhiệm bèn nói không, đây là dành cho anh Thao, anh Thao ngày nào cũng hai chai. Sáng sau sắp lên đường đi tiếp, xuống nhà ăn thấy hai cái thồi to kê sát vào nhau bày đầy món ăn rất ngon, mình lại nhanh nhảu khen tay chủ nhiệm khéo chuẩn bị cho ông khách quý Paris có cái ăn trong mấy ngày ở Vĩnh Linh. Xừ chủ nhiệm lại nói: Dạ thưa bác, hôm nay gia đình anh Thao lên núi đi săn với thường vụ tỉnh ủy, các cái này là phục vụ các anh ấy đấy ạ!
Kể đến đây, Tuân nhành mồm ra cười đánh khì một cái rồi nghiêng người đặt tay lên đùi gật gù, như tượng “Người suy tư” của Rodin nhưng chán đời.
Hai năm sau, 1966, chuyện cũng dính đến ô tô.
Hôm ấy, Mỹ ném bom Phú Thượng, quãng ngã ba đường Bưởi. Làm việc với anh chị em từ trong Nam ra ở K15 Nghi Tàm, năm giờ chiều Nguyễn Khải và tôi về. Thì ngập vào đám đông bà con lũ lượt chạy về Hà Nội nghẽn hết cả đường. Chợt một Volga đen từ Hà Nội nhích từng vòng bánh lên phía Phú Thượng. Trên xe ba đứa con trai nhảy từ ghế trên xuống ghế dưới. Và Nguyễn Chí Thanh lặng ngắm Hồ Tây đỏ tía ánh chiều tà trước khi tới tham quan nơi bị bom Mỹ.
Tôi nói: – Đang Buồn trông cửa biển chiều hôm kìa.
– Ông ấy nên đeo khăn tang, – Khải nói.