Thế là cuối cùng người ta đã đi tới câu hỏi không thể không đặt ra. Tôi nghĩ lẽ ra nó phải là câu hỏi đầu tiên khi người ta đưa tôi vào Hỏa Lò.
Nó chính là cái trục, mọi việc đều phải xoay quanh nó, dính vào nó. Không có nó, không thể làm ra một vụ án lớn. Ðể bắt giam một loạt cán bộ có tiếng tăm, trong đó có cả những bậc lão thành cách mạng, bọn Lê Duẩn, Lê Dức Thọ không thể đưa ra một tội danh tầm phào như “nói xấu chế độ”(1) được, mặc dầu với tội danh này đã có không biết bao nhiêu công dân phải nằm trong các trại tập trung năm này qua năm khác.
Xem xét tính hiện thực của một âm mưu đảo chính, tôi đặt hai vấn đề.
Một là, những mâu thuẫn nội tại trong xã hội trong thời kỳ ấy có phát triển tới mức nổi lên nhu cầu thay thế chế độ hiện hữu hoặc thay thế ban lãnh đạo đương nhiệm bằng một cuộc đảo chính không?
Câu trả lời là không. Nhân dân thấy bức bối dưới sự cai trị hà khắc nhưng vẫn cố gắng chịu đựng, tự an ủi rằng mọi sự khó chịu là nhất thời, là do chiến tranh, chiến thắng rồi cuộc sống sẽ khác.
Hai là, nếu âm mưu đảo chính là có thì ai là người muốn đảo chính và thực sự có khả năng làm đảo chính?
Trước hết, cái gọi là những lực lượng phản động chống chế độ gồm những người có quá khứ liên quan với chính quyền thuộc địa, những thành viên các đảng phái có thật và không có thật, đều đã bị tiêu diệt hết bởi lưỡi gươm không khoan nhượng của chuyên chính vô sản. Mọi mưu toan chống đối đều bị bóp chết từ trong trứng. Không có, và không thể có chuyện những lực lượng đó làm đảo chính.
Chỉ còn lại những người cộng sản không thuộc dòng chính thống và bị dòng chính thống nghi ngờ. Chỉ họ mới có khả năng tập hợp quần chúng quanh mình như quanh một ngọn cờ đại nghĩa. Cũng chỉ họ mới có khả năng làm đảo chính.
Trong thực tế, như một nghịch lý, những người này lại chẳng bao giờ nghĩ tới đảo chính cả. Trong họ không có sự lựa chọn nào khác ngoài sự lựa chọn hai lấy một: hoặc là chủ nghĩa xã hội phi dân chủ như xã hội hiện tại, hoặc là chủ nghĩa xã hội dân chủ chưa hiện hữu, đòi hỏi ở họ những cố gắng và quyết tâm cách tân.
Nhưng đất nước lại đang có chiến tranh, một cuộc đảo chính sẽ là nhát dao đâm vào lưng người chỉ huy cuộc chiến là Ðảng cộng sản, cho tới bấy giờ vẫn là đảng của họ. Ðảo chính có thể làm mất đi chính chủ nghĩa xã hội để có cơ may dân chủ hóa nó. Cho nên mặc dầu có nhiều điều bất đồng với nhà cầm quyền trên nhiều mặt những người bị vu là có âm mưu lật đổ chưa bao giờ nghĩ tới lật đổ.
Như thế, chỉ còn lại những người đang đứng trên đỉnh cao quyền lực tự đảo chính mà thôi. Tạo ra một cuộc đảo chính trong tưởng tượng để gạt bỏ những đối thủ có khả năng thay thế mình một sớm một chiều cũng là đảo chính.
Riêng việc cho đến tận bây giờ những người lãnh đạo Ðảng cộng sản vẫn còn phải dài lời biện bạch về một vụ bắt bớ xảy ra ba chục năm trước đủ thấy họ lúng túng tới mức nào trước dư luận xã hội. Những người lãnh đạo Ðảng còn phải biện bạch còn chán, chừng nào họ còn ngồi được trên ghế của mình mà biện bạch. Tôi dùng từ họ ở đây để chỉ lớp đệ tử đã dây máu ăn phần trong quá khứ, lớp lãnh đạo mới lên run rẩy trước viễn cảnh bị tước đoạt địa vị ăn trên ngồi chốc vừa kiếm được. Ðó là lớp trợ thủ và hậu bị đang kế tục sự nghiệp của những kẻ chủ mưu vụ đảo chính thật, thủ phạm chính của vụ trấn phản tàn bạo mở đầu năm 1967, chứ không phải những kẻ đó nay đã chết rồi.
Họ sợ vụ án bị xới lên sẽ dẫn tới thắng lợi của xu hướng dân chủ pháp trị, tới sự cáo chung không tránh khỏi của nền độc tài Ðảng trị.
Nhà cầm quyền rêu rao rằng những người bị bắt sở dĩ có lập trường đối lập với Ðảng là do bất mãn, công thần, do đòi hỏi hưởng thụ. Một sự bịp bợm trắng trợn.
Sự thật là: làn sóng chống đối đã hình thành một cách tự phát, từ bản năng bị đè nén, từ nhân phẩm bị chà đạp.
Ðó chính là sự vùng lên của con người tự trọng đòi quyền sống, quyền làm người.
Nhưng dưới triều đại sắt thép của Duẩn-Thọ, sự vùng lên của những cán bộ bất tuân chỉ mang dáng dấp một cuộc vận động âm thầm cho những ý kiến của mình, mong chúng được lãnh đạo chấp nhận. Nghĩa là một cuộc đấu tranh hòa bình nhất, hiền lành nhất, không xứng đáng với bất cứ sự đàn áp nào.
Lê Duẩn quá cẩn thận trong việc bịt miệng đồng chí. Chỉ bằng những nghị quyết dựa trên đa số áp đảo, dựa trên những mánh khóe xảo quyệt của bộ máy tổ chức, bất cứ Ðại hội Ðảng(2) nào cũng chẳng mang lại được cái gì mới, đừng nói gì các Hội nghị Trung ương.
Câu hỏi được đặt thêm là: Lê Duẩn – Lê Ðức Thọ cần gì phải dựng nên một màn kịch nhằm bôi nhọ các nhà cách mạng lão thành mà cuộc đời chiến đấu của họ đã chứng minh lòng trung thành vô hạn với cách mạng và vì thế không thể bôi nhọ nổi, trừ cách cả vú lấp miệng em?
Tổng hợp các dữ kiện tôi có, câu trả lời có tính thuyết phục cho câu hỏi đặt ra ở trên là thế này: sự hấp tấp vẽ ra một vụ đảo chính bất thành rõ ràng được tính toán như một đòn phòng ngừa nhằm vào đối thủ tiềm tàng đang nằm trong thế cờ có thể trở thành đối thủ thật sự lúc nào không biết.
Mối lo của liên minh Duẩn-Thọ không phải các cán bộ lão thành, tuy thoạt nhìn bề ngoài có vẻ là như vậy. Những người đó chỉ là mối lo cụ thể, thấy được bằng mắt thường. Mối lo thật sự làm cho Duẩn-Thọ ăn không ngon ngủ không yên chính là trí tuệ Việt Nam nằm trong những nhân vật cách mạng tiên tiến và tầng lớp trí thức, một lực lượng hàm chứa mối đe dọa lớn lao của một trào lưu âm ỉ không bao giờ tắt đòi tự do và dân chủ.
Ðối thủ tiềm tàng này sẽ gạt bỏ họ, kẻ đại diện cho nền chuyên chế bị dân chúng vừa sợ hãi vừa ghê tởm, một khi xuất hiện tình thế cách mạng, thường liên quan với một biến động thế giới.
Những nhà cách mạng lão thành và các trí thức có tên tuổi chính là ngọn cờ duy nhất có hấp lực mạnh mẽ đối với quần chúng khát khao dân chủ và nhân quyền. Ngọn cờ này có khả năng trở thành một sức mạnh bất ngờ lật ngược tất cả nếu như tình hình quốc tế trở nên bất lợi cho Trung Quốc, cũng là bất lợi cho Việt Nam, là điều Duẩn-Thọ đủ thông minh để hiểu rằng không phải không thể xảy ra. Tháng 12 năm 1963, khi họ cho ra Nghị quyết 9, tình thế không hề giống như cuối năm 1967.
Ðể đối phó với tình huống xấu nhất, nghĩa là thất bại của đường lối Mao Trạch-đông với những Ðại nhảy vọt, Ðại cách mạng văn hóa vô sản sẽ dẫn tới sự thay đổi ban lãnh đạo Ðảng cộng sản Trung Quốc, hoặc nặng nề hơn, thay đổi cả thể chế xã hội Trung Quốc, và tất nhiên, ở Việt Nam lúc đó cũng sẽ diễn ra một sự thay đổi tương tự, người ta đi nước cờ liều – bắt giam hàng loạt cán bộ, trong quân đội cũng như ngoài quân đội, cho ra vẻ có một âm mưu đảo chính thật.
Những bài bản của Mao trong việc loại trừ các tướng lĩnh, những người có khả năng thế chân Mao, được Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ coi như bảo bối. Người có khả năng ngồi vào ghế của họ là Võ Nguyên Giáp và các cán bộ được xếp vào cái gọi là Ðoàn cán bộ Trung ương(3). Cách tốt nhất để tiêu diệt đối thủ là dựng ra một âm mưu đảo chính. Ðể dựng ra một vụ âm mưu đảo chính không cần, không nhất thiết cần có bằng chứng (tất nhiên, tạo ra được những bằng chứng giả thì tốt hơn). Chỉ cần nửa kín nửa hở, sao cho nó tồn tại trong dân chúng bị bưng tai bịt mắt như một tin đồn có sở cứ, còn với nạn nhân của vụ trấn phản thì chỉ cần nặn ra được vài lời khai của đôi ba người nhát gan rằng họ có nghĩ tới, có trò chuyện với nhau về một âm mưu đảo chính là đủ.
Hoàng Văn Hoan lầm to khi cho rằng Lê Duẩn theo Khrushov chống Mao, Lê Duẩn là xét lại. Trên thực tế, Lê Duẩn gần với Hoàng Văn Hoan hơn bất cứ ai trong ban lãnh đạo Ðảng thời kỳ đó. Cả hai đều là Tiểu Mao về tư tưởng. Cả hai cùng có chung một định hướng chính trị, một hình dung về thể chế xã hội, một cách cai trị. Họ không chơi được với nhau, không chung sống được với nhau, là do những cái khác. Hoàng Văn Hoan còn có trong mình nhân cách nhà nho, ông thích mô hình xã hội Mao vì cho rằng chỉ có nó mới bảo đảm chắc chắn cho thắng lợi của cách mạng vô sản, trong khi Lê Duẩn đã là người thực dụng của thời hiện đại, Lê Duẩn thích nó vì nó bảo đảm cho ông ta ngồi yên trên ghế độc tài. Những người biết Lê Duẩn nói rằng Hoàng Văn Hoan nhận xét chính xác về tính cách của Lê Duẩn. Theo Hoàng Văn Hoan, Lê Duẩn có tham vọng vô độ. Việc Lê Duẩn vội vã gạt Hồ Chí Minh ra khỏi quyền bính bộc lộ tham vọng này. Trong hành động Lê Duẩn là người duy lý, không thừa nhận tình nghĩa, không hợp tác được với ai mà không nghĩ tới chuyện hất cẳng họ. Lê Ðức Thọ có không trung thành với Lê Duẩn sau này cũng chỉ là sự đi trước đối thủ một bước mà thôi. Chuyện màu sắc chính trị của Lê Duẩn thay đổi như da tắc kè nhông lại là chuyện khác, nó thuộc về tính lá mặt lá trái của Lê Duẩn(4).
Khi chúng tôi bị khóa tay đưa vào Hỏa Lò, Lê Duẩn vừa đi Liên Xô về. Tại điện Kremli Lê Duẩn lớn tiếng khẳng định quê hương Cách mạng Tháng Mười là Tổ quốc thứ hai của những người cộng sản Việt Nam, thề thốt sẽ bảo vệ tình hữu nghị giữa hai nước như con ngươi của mắt. Cùng lúc, ở trong nước ngành tuyên truyền ra sức ngợi ca chế độ toàn trị, hăm dọa trấn áp những ai muốn Việt Nam đi theo con đường dân chủ hóa vừa được hé mở tại Liên Xô, gọi họ là những phần tử pro-soviétique. Tại những cuộc thuyết giảng nội bộ đám đệ tử Lê Duẩn tiếp tục chỉ trích những nghị quyết của Ðại hội XX, gọi giai đoạn sau Khrushov là chủ nghĩa xét lại Khrushov không có Khrusov, đồng thời mập mờ đưa đẩy vài ba câu chống Mao, trong khi đó thì bộ máy trấn phản thì được lệnh hoạt động hết tốc lực để thu gom đám xét lại vào xà lim.
Trước khi bị bắt tôi đã nghe những tin đồn về sự lủng củng giữa những người anh em ruột thịt Trung-Việt. Ông Hồ Chí Minh có câu nói nổi tiếng về mối tình hữu nghị khăng khít ấy: “Việt Nam với Trung Quốc như môi với răng. Môi hở thì răng lạnh”. Sau này, khi hai bên day tay mím miệng đấm đá nhau rồi, đã cầm súng nã đạn vào nhau rồi, người ta mới tạo ra một nghĩa bóng cho nó, rằng Ông Cụ nhà ta giỏi lắm, nhìn xa trông rộng lắm, Cụ không ví hai nước Trung Việt như cái gì khác mà lại ví như môi với răng thì thông minh thật: môi hở đúng là răng lạnh, nhưng răng mà cắn thì môi đau, chứ ngoài cái sự mếu máo ra môi chẳng làm gì được răng hết(5).
Duẩn-Thọ không ngu để bình thản ngồi yên chờ cái kết cục chắc chắn sẽ tới: buộc lòng thừa nhận sai lầm trong sự lựa chọn đường lối mao-ít. Thừa nhận mình sai trong việc lãnh đạo đất nước có nghĩa là thời của mình đã hết. Hậu quả không tránh khỏi là nhân sự trong ban lãnh đạo Ðảng phải thay đổi: kẻ sai phải ra đi nhường chỗ cho người khác.
Mà cái sai lớn cứ lừng lững hiện hình, mỗi lúc một rõ nét. Mặc dầu Ðảng ra sức bưng bít mọi tin tức, nhưng nhờ thói quen hiểu ngược lại những gì phương tiện truyền thông độc quyền công bố, nhờ những người Trung Quốc chạy loạn bị bắt tại các tỉnh phía Bắc kể lại, mọi người đều biết ở nước Trung Quốc láng giềng đang xảy ra chuyện gì. Người Việt Nam không cần biết đường lối chính trị của Mao đúng hay sai, họ hiểu chính trị theo cách thực dụng của đời thường. Chẳng ai muốn sống như những người anh em bên kia biên giới đang phải sống: trong cuộc chiến nồi da nấu thịt thường trực, trong đạo lý suy đồi: con tố cha, vợ tố chồng.
Trong nhân dân loan truyền nhiều tin đồn về việc quân Trung Quốc lập nhiều kho vũ khí bí mật trong các hang động ở miền núi. Ðể làm gì khi vũ khí trực chiến có thể để trong các lán gần các vị trí chiến đấu? Những vùng đóng quân của Trung Quốc chiếm diện tích rộng hơn mức cần thiết để làm gì? Tại vùng mỏ Quảng Ninh quân Trung Quốc ngang nhiên bắt giữ các chuyên gia địa chất Liên Xô đi lạc vào vùng đóng quân của họ. Chỉ đến khi chính quyền Việt Nam can thiệp tích cực những chuyên gia này mới được thả. Trở về Hà Nội họ nói thẳng với thủ tướng Phạm Văn Ðồng: “Nếu đến Việt Nam công tác công dân Liên Xô phải xin visa(6) của Trung Quốc thì xin các đồng chí báo trước để về sau những việc tương tự không xảy ra nữa”.
Ðó là chuyện thật mà giới báo chí chúng tôi được biết. Thuộc về những tin đồn còn có chuyện quân Trung Quốc và các đoàn chuyên gia Trung Quốc sang Việt Nam mang theo gia phả để tìm của. Những kho vàng cực lớn được đào lên, đúc thành xẻng cuốc, sơn đen đi để chuyển về Tàu. Người ta kể kỹ sư và công nhân Trung Quốc giúp Việt Nam xây dựng Nhà máy nhiệt điện Ninh Bình đã khoanh vùng quản lý của họ rộng một cách phi lý. Sau mới biết họ làm thế để tìm kho vàng được chôn giấu từ thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai. Mà không phải chỉ ở một Ninh Bình có chuyện đó. Chuyện người Tàu để của thuộc lĩnh vực huyền thoại, lĩnh vực chuyện dân gian truyền khẩu qua nhiều thế kỷ, tôi được nghe nhiều từ thuở còn thơ. Không hiểu người Tàu có mang gia phả sang tìm của và có tìm được hay không, nhưng những tin đồn về vụ này chẳng cần có bằng chứng vẫn được nhân dân tiếp nhận như những tin xác thực, khỏi cần kiểm tra.
Việc Ðảng cộng sản Việt Nam mời quân đội Trung Quốc vào nước mình là chuyện mọi người đều biết. Sở dĩ tôi phải nói cho chính xác “Ðảng cộng sản Việt Nam mời” vì sự kiện quân đội Trung Quốc có mặt ở miền Bắc Việt Nam trước nay được hiểu như do Nhà nước Việt Nam mời vào. Thực sự không hề có một văn bản Nhà nước nào xác nhận vụ đó, cho dù Nhà nước Việt Nam trước nay vẫn là tay sai của Ðảng. Thỉnh thoảng Việt Nam Thông tấn xã lại phải ra một tuyên bố cải chính các nguồn tin nước ngoài về sự hiện diện của quân đội Trung Quốc tại Việt Nam.
Trong công việc viết báo tôi thường có mặt ở những địa phương có quân Trung Quốc đóng(7), được nghe nhiều lời phàn nàn về chuyện Ðảng và Nhà nước để quân Trung Quốc vào. Người ta tin cậy hỏi tôi như hỏi một cán bộ hiểu biết, hi vọng tôi giải đáp cho họ câu hỏi nhức nhối đó. Khốn nạn, tôi có thể nói được gì cho họ trong khi chính tôi cũng không hiểu nổi những quyết định tự quyền của Duẩn-Thọ(8), mà theo chúng tôi, chỉ có những thằng điên mới hành động như thế!
Trong số những nhà cách mạng lão thành có hòa thượng Thiện Chiếu, rất danh tiếng trong giới tăng lữ và Phật tử Nam bộ. Ông là người yêu nước không đảng phái, bị chính quyền thuộc địa đày ra Côn Ðảo. ê đây nhà sư có những cuộc tranh luận nẩy lửa và kéo dài với những người cộng sản về con đường tương lai của dân tộc. Giáo sư đỏ Bùi Công Trừng đã thuyết phục được Thiện Chiếu, nhà sư quyết định gia nhập Ðảng cộng sản. “Hổng có tổ chức nào tốt hơn cho công cuộc giải phóng dân tộc lúc bấy giờ”, ông nói. Kháng chiến chống Pháp kết thúc, ông tập kết ra Hà Nội. Nhờ có Hán học uyên thâm, ông được cử sang Bắc Kinh làm chuyên gia Việt ngữ cho Nhà xuất bản ngoại văn Trung Quốc.
Vào năm 1963, trước khi có nghị quyết 9, từ Bắc Kinh Thiện Chiếu viết thư về cho Trung ương: “Tôi muốn chắp cánh bay về phương Nam để cấp báo các đồng chí biết rằng chớ có tin Mao Trạch-đông. Nó là một con ác quỷ…”. Ông bị triệu về nước, sống một mình trong một căn phòng nhỏ. Tết Ất Tỵ (1965), thứ trưởng Bộ Văn hóa Hà Huy Giáp tới thăm ông, hỏi ông sao Tết đến mà hương lạnh khói tàn thì ông già Thiện Chiếu đi cuồng trong căn phòng hẹp mà kêu lên: “Còn vui chi mà nói chuyện Tết nhứt! Tết này ta tưởng nhớ tới Quang Trung! Tổ tiên đổ biết bao nhiêu xương máu mới đuổi quân xâm lược ra ngoài bờ cõi, nay con cháu rượu thịt rước chúng vào nhà, ta ăn Tết sao đang!” Thứ trưởng họ Hà thấy ông già ăn nói bặm trợn hãi quá, đặt vội quà Tết lên bàn, rông thẳng.
Nhà báo Thái Hồng thường tới thăm sư Thiện Chiếu, thỉnh thoảng kéo tôi theo. Cha Thái Hồng là một nhà cách mạng đàn em của sư Thiện Chiếu, cho nên nhà sư rất quý anh. Gặp nhà sư tôi có cảm giác như gặp một hiệp sĩ Trung cổ. Ông có cốt cách nho sĩ, cái cốt cách vừa thư thái vừa ngang tàng, thà chết không cúi đầu. Trong ông nhức nhối tấn bi kịch của thế hệ cha chú tôi: một mặt ông vẫn tin vào Ðảng của ông, mà quá khứ huy hoàng của nó cho phép ông được tự hào, mặt khác là sự thoái hóa nhục nhã của nó trong hiện tại mà ông không thể nhắm mắt để không thấy. Ông nói ra chính kiến của ông ở bất cứ đâu, với bất cứ ai, không nể nang, không biết sợ. Nghe nói Lê Ðức Thọ muốn trị ông già bướng bỉnh lắm, nhưng Lê Duẩn ngần ngại chi đó không cho phép.
Ðó là quang cảnh thời kỳ trước khi có vụ bắt bớ nhóm xét lại chống Ðảng. Miền Bắc sống trong bầu không khí ngột ngạt.
Mấy buổi làm việc tiếp theo Huỳnh Ngự đeo chặt tôi như một con đỉa. Y một mực xoáy vào chuyện đảo chính. Phỉnh phờ có, dụ dỗ có, hăm dọa có. Mọi mánh khóe được sử dụng chỉ cốt nặn ra một lời thú nhận rằng tôi có nghe ai đó, bất kể là ai – tướng Ðặng Kim Giang, tướng Lê Liêm, cha tôi, Hoàng Minh Chính, hoặc một nhân vật nào khác thuộc khối quân đội, không kể cấp bậc, nói tới hai từ này.
– Tui đã nói rồi, nói nhiều lắm rồi, – Huỳnh Ngự ghé sát vào tai tôi mà khuyến dụ, mà chì chiết bằng cái giọng rin rít – rằng anh không cần phải nhớ chính xác ai nói, nghe loáng thoáng cũng được, cũng cứ báo cáo cho Ðảng… Việc của chúng tôi là tìm hiểu thêm, làm rõ thêm, rồi bổ sung vào báo cáo của anh cho đầy đủ…
– Nhưng tôi có nghe ai nói gì đến đảo chính đâu!
– Thời mới phải nghĩ. Con người ta ai cũng vậy, nghe mà không chú ý thời quên, nhưng bình tĩnh mà nhớ lại thời nhớ ra… Anh cũng phải nghĩ tới ngày về với gia đình chứ.
– Tôi không có gì để nói.
– Vậy thời anh rũ tù. Hiểu chưa: rũ tù!
Tôi không buồn cãi lại. Tôi không hề có ý định làm anh hùng. Chẳng ai cần tới sự dũng cảm của tôi. Nguyên nhân của sự dũng cảm bất đắc dĩ là tôi không sợ chết. Cuộc sống của tôi chẳng đẹp đẽ đến nỗi phải bám chằng chằng lấy nó. Tất cả những gì diễn ra trước mắt làm tôi chán ngán đến cùng cực. Sau sự việc xảy ra với tôi, tôi tin rằng có những người trở thành anh hùng chỉ vì không thiết sống.
Huỳnh Ngự làm tôi mệt quá. Tôi sẵn sàng đầu hàng y nếu như y hài lòng chỉ với một lá cờ trắng. Nhưng không hơn. Tôi không thể nghe theo y để bước qua cái ngưỡng đạo đức mà một người tự trọng không thể bước qua.
Tôi đoán Huỳnh Ngự, cũng như cả bọn chấp pháp tay sai của Lê Ðức Thọ và Trần Quốc Hoàn đã thất bại trong cố gắng ép cung, mớm cung những người trong vụ, và giờ đây họ hi vọng rằng với sự non dại của tôi, tôi sẽ cho họ cái khẩu chứng mà họ cần để dùng nó ép tiếp cha tôi và những người khác.
Tội của tôi trong con mắt Huỳnh Ngự không phải chỉ có thế. Tôi còn nhiều tội tầy trời khác.
– Anh là láo lắm, anh dám kêu Mao chủ tịch, lãnh tụ giai cấp vô sản toàn thế giới bằng Mao xếnh xáng. – một lần giữa buổi hỏi cung y quát tôi – Ðúng vậy không? Hay anh lại cãi, lại biểu tụi tui vu cho anh?
Ai báo cáo với bọn chúng chuyện này nhỉ?
Tôi nghi đó là nhà thơ Hoàng Nguyên Kỳ, bí thư chi bộ tờ báo chúng tôi. Tôi chơi thân với Hoàng Nguyên Kỳ, chỉ với anh tôi mới dám nói bạt mạng, không giữ gìn. Bí thư chi bộ có trách nhiệm báo cáo về tình hình cơ quan cho tổ chức và cho công an. Anh làm công việc của anh. Mà cũng có thể không phải anh, tôi không dám nói chắc. Trong cơ quan nào chả có người của công an gài vào.
Nhạo báng lãnh tụ là tội rất nặng. Là dân thường mắc phải tội này bị tập trung cải tạo là cái chắc. Lãnh tụ không phải chỉ có Hồ Chí Minh hay Trường Chinh trước kia hoặc Lê Duẩn bây giờ, Lênin hay Stalin, mà Mao cũng lãnh tụ, Kim cũng lãnh tụ, cả Ceaucescu cũng lãnh tụ nốt. Với Huỳnh Ngự thì Trần Quốc Hoàn cũng là lãnh tụ luôn.
– Ðúng, tôi có nói như vậy. – tôi nói.
Huỳnh Ngự khoan khoái:
– Có vậy chớ! Tui tưởng cả chuyện nầy anh cũng chối.
– Nhưng ai đã báo cáo chuyện vớ vẩn ấy với cơ quan an ninh? Mỗi câu nói nằm trong một văn cảnh có một nghĩa cụ thể. Chuyện nói cho vui cũng đôn lên thành tội được.
– Anh muốn biết người nói làm chi? – Huỳnh Ngự lườm tôi – Người ta thấy anh sai thời người ta báo cáo. Vừa là bảo vệ cách mạng, vừa để uốn nắn cho anh. Dám gọi Bác Mao như vậy thiệt bậy quá, bậy quá!
Tôi chẳng biết nên nói gì với y.
– Có gì đâu. – đành phải nghĩ ra một cách giải thích – Tôi đi qua Trung Quốc nhiều lần, thấy ở bên ấy người ta gọi nhau là xếnh xáng, nghe cũng vui vui. Nghĩa của nó là tiên sinh, chứ không có gì xấu. Nói tào lao với anh em tôi cũng bắt chước gọi các vị ở bên Tàu là xếnh xáng. Tôi nghĩ gọi chủ tịch Mao Trạch-đông là Mao xếnh xáng cũng như gọi Mao tiên sinh thôi, có gì là bất nhã đâu.
Huỳnh Ngự xì một tiếng:
– Chỉ được cái vụng chèo khéo chống! May cho anh, nếu ở Trung Quốc chắc anh không còn sống được tới hôm ni. Có khi chết không toàn thây.
Tôi may thật. Nếu là người Trung Quốc chắc tôi đã bị giết. Nghe nói bên ấy mạng người không bằng con ngoé. Một anh bạn tôi trên đường quá cảnh Trung Quốc về Việt Nam đã mắt thấy loạn Hồng vệ binh là thế nào.
Bắc Kinh nhung nhúc những toán quân trong đồng phục bộ đội nhưng khác màu. Ðó là những đứa trẻ mải mê chơi trò cách mạng, với vũ khí là gậy gộc cộng với tay chân ngứa ngáy. Chúng hò hét om xòm trên đường phố, tay vung cao Mao tuyển đỏ rực màu máu(9). Trống phách ầm ầm. Dân chúng chạy ngược chạy xuôi, mặt nhớn nhác trong thành phố lòe loẹt đại tự báo giống như một nhà táng khổng lồ.
Lúc tàu dừng ở ga Vũ Xương, một đám nhóc Hồng vệ binh tràn lên các toa. Hỏi giấy, biết anh người Việt, chúng tha, chỉ hành người Trung Quốc, khảo Mao tuyển(10) khắp lượt. Tưởng chúng đi là xong, nhưng không phải. Tàu sắp chuyển bánh lại thấy một nhóm Hồng vệ binh khác mặt đỏ bừng bừng lao lên rượt theo một người đàn ông đứng tuổi. Bị chúng tóm được, ông ta vừa kịp hô rầm lên “Mao chủ tịch vạn tuế!”, “Ðảng cộng sản vạn tuế!” thì đã bị bắn chết tươi. Không ai biết ông ta phạm tội gì. Cái xác cứ nằm mãi trước phòng vệ sinh, hai cẳng chân đen đủi thò ra ngoài quần rung rung theo nhịp tàu chạy. Hành khách ngồi im thin thít, không ai dám rời chỗ để giảm đi sự căng thẳng trong bụng và trong lòng. Nhân viên đường sắt sợ xanh mắt. Không ai dám dọn cái xác đi. Ðưa xuống một ga nào đó trên đường có thể bị buộc tội cảm tình với phái hữu. Vứt xuống trong khi tàu chạy thì không nỡ.
Nói chung, tình hình Trung Quốc trong Ðại cách mạng văn hóa vô sản vô cùng rối ren, thứ tình hình được gọi là loan xi pa chao, nghĩa là loạn xị bát nháo. Dân chạy loạn Hồng vệ binh kể bên Tàu không như ta hình dung. Không có một thứ Hồng vệ binh đồng nhất. Có loại Hồng vệ binh rất ác, có loại ác vừa, có loại ác ít. Thảng hoặc mới gặp Hồng vệ binh hiền. Bọn Hồng vệ binh đặc biệt ác đi đến đâu phá phách đến đó. Chúng xông vào chùa chiền, lăng tẩm đập phá không tiếc tay. Sách báo trong các thư viện bằng tiếng nước ngoài bị lôi ra đốt sạch, trong đó có những sách quý mà nhiều thế hệ trí thức Trung Quốc tốn không biết bao nhiêu công sức và tiền bạc mới gom được. Một giám đốc thư viện phải quỳ xuống, rập đầu vái chúng như tế sao: “Trăm lạy các tiểu tướng! Ngàn lạy các tiểu tướng! Xin các tiểu tướng giết tôi, nhưng tha cho, đừng đốt sách!”. Chúng dong những giáo sư đầu bạc khắp phố phường, sỉ nhục họ vì họ phạm tội đầu độc sinh viên bằng những tư tưởng phi vô sản. Chúng lấy thắt lưng quật nát tay một sinh viên nhạc viện vì anh này trốn hạ phóng, sợ lao động chân tay. Anh sinh viên sau trốn sang Anh, được giải thưởng vĩ cầm quốc tế.
Mao là một thầy phù thủy vĩ đại. Chỉ ông ta mới biết cách tạo ra thứ âm binh – vệ binh kỳ lạ như thế.
Anh Vũ Bội Kiếm, bạn thân của tôi thời tiểu học, kể rằng trước khi về nước anh liều mạng đến chia tay với thầy học, một chuyên gia khí tượng cỡ thế giới. Liều mạng, vì ông giáo sư đang bị đấu như một phần tử phái hữu. Mới qua có mấy tháng mà ông già đi cả chục tuổi. Gày rộc, hốc hác, ông ngồi ủ rũ trong căn phòng tối, không dám bật điện. Tiếp Vũ Bội Kiếm, ông khóc tức tưởi dặn anh về đến Việt Nam phải lập tức báo cáo ngay cho lãnh đạo nước mình biết việc đang xảy ra ở đây. Chớ để Việt Nam sa vào vết xe đổ, ông nói, kẻo có ngày nền khoa học trẻ của các anh bị san bằng để rồi phải khởi sự từ đầu. Về nước, Vũ Bội Kiếm hiểu rằng có nói cũng chẳng ai nghe, mà còn nguy hiểm. Trên báo Nhân Dân(11), dưới những hàng tít đậm, thành tích đập phá của Hồng vệ binh dưới sự lãnh đạo của Mao chủ tịch vẫn được ca ngợi hết lời.
Chẳng riêng Vũ Bội Kiếm, anh là thần dân quá bé nhỏ để có thể kêu thấu cửu trùng, những cán bộ không kém phần mao-ít về quan điểm nhưng trung thực về tư cách như phó tổng biên tập Việt Nam Thông tấn xã Lê Chân sau khi đi thăm Trung Quốc đã làm bản tường trình gửi Trung ương, đề nghị Trung ương thận trọng với những kinh nghiệm Trung Quốc. Bản tường trình bị bỏ vào sọt rác, người báo cáo bị gọi lên xát xà-phòng(12) vì tội có cái nhìn sai lạc đối với thực tế cách mạng ở nước đàn anh. Thật ra, trong bản tường trình Lê Chân cũng không dám phê phán Ðại cách mạng văn hóa vô sản đâu, anh chỉ khách quan trình bày những gì anh thấy – cảnh lộn xộn tại Bắc Kinh, những giáo sư bị sinh viên đánh đập, những di tích lịch sử ở Di hòa viên, ở Cố cung, Thiên đàn, Thập tam lăng bị Hồng vệ binh phá phách. Anh trích lời phát biểu của các sinh viên Bungari, Anbani, Rumani mà anh gặp. Họ lên án hành động man rợ của Hồng vệ binh và quyết định rời Trung Quốc, vì ở đây đang diễn ra sự hủy diệt bất cứ cái gì là văn hóa. Tôi được đọc bản tường trình của Lê Chân. Không ngờ con người bị chúng tôi liệt vào loại mao-ít như anh lại có dũng khí viết sự thật như thế. Một năm trước, khi tôi cùng với anh đi thăm nông trường Sao Vàng ở Thanh Hóa, Lê Chân còn hào hứng tán dương Ðại cách mạng văn hóa vô sản, cho rằng sứ mệnh của giai cấp vô sản là “phải đập tan mọi cái cũ để xây cái mới”.
Vũ Bội Kiếm còn kể cho tôi nghe những chuyện thực mà như bịa ở Trung Quốc. Tại trường đại học Thanh Hoa, Giang Thanh(13) nhảy lên diễn đàn vò đầu bứt tai kể nỗi khổ của bà ta trong gia đình chồng. Bà tố cáo lũ con chồng miệt thị bà, hành hạ bà, nhất là đứa con dâu cả. Cho dù những chuyện đó có thật cũng không phải cái để phô ra công chúng. ê bên Tàu khác: Giang Thanh là lãnh tụ Hồng vệ binh, xúc phạm Giang Thanh là xúc phạm Hồng vệ binh.
Trên diễn đàn trường này, Hồng vệ binh Bắc Kinh to tiếng chửi bới Hồng vệ binh Ðường Sơn ỉa bậy, biến thủ đô thành một nhà xí hôi thối. Hồng vệ binh Ðường Sơn giằng lấy micrô chửi lại, nói không phải họ bậy, mà Hồng vệ binh Thiên Tân bậy. Hồng vệ binh Thiên Tân nhẩy lên chửi Hồng vệ binh Ðường Sơn nói láo, rút Mao tuyển ra chỉ vào một trang. Lời Mao chủ tịch dạy rành rành: “Không điều tra không có quyền phát ngôn”. Hồng vệ binh Ðường Sơn gạt người Thiên Tân ra, cũng chỉ vào Mao tuyển: “Người nói không có tội, người nghe phải sửa mình”. Giằng co chán, chửi nhau chán, họ choảng nhau. Cảnh sát thổi còi te te nhảy vào, cũng lại rút Mao tuyển để giở một trang khác, đọc to cho mọi người cùng nghe, trong đó cũng lại Mao chủ tịch dạy rằng: “Mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân không phải là mâu thuẫn địch ta, phải giải quyết bằng thương lượng”.
Trung Quốc dưới thời Mao Trạch-đông trị vì không bao giờ có được một thời kỳ bình ổn lâu dài. Thỉnh thoảng Mao Trạch-đông và đám đệ tử ông ta lại quậy một chặp, làm cho đất nước nát như tương trong một phong trào nào đó, khi tam phản, khi ngũ phản, khi thất bát phản, không còn biết đàng nào mà lần.
Không biết có phải các nhà lãnh đạo Việt Nam quay lưng lại với thực tế hay vì quyền lợi riêng làm cho mù quáng, nhưng trong một thời gian dài họ khăng khăng coi đường lối Mao Trạch-đông là đúng(14).
Huỳnh Ngự thấy có trách nhiệm phải soi sáng cho cái đầu bị thịt của tôi. Y kiên nhẫn giảng giải cho tôi hiểu vai trò của các đảng mác-xít – lênin-nít trong cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, đặc biệt là vai trò của Ðảng cộng sản Trung Quốc và Ðảng Lao động Việt Nam. Cứ như y thì chỉ có hai đảng là thực sự tích cực trong việc bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin. Y thóa mạ các đảng cộng sản Pháp, í, Tây-ban-nha, chỉ trích các đảng cộng sản Triều Tiên, Rumani, Anbani.
Trên báo chí thế giới đã có nhiều bài viết về chuyện tẩy não trong nhà tù xã hội chủ nghĩa. Không biết với người khác thế nào, chứ với tôi những bài thuyết giảng bữa đực bữa cái chen vào giữa buổi hỏi cung là hành động tẩy não duy nhất. Không có chuyện bắt người bị tẩy não học thuộc lòng, chỉ có sự nói dai như chão rách của kẻ tẩy não về chủ nghĩa Mác, về đường lối chính sách của Ðảng, sự dọa nạt về hậu quả sẽ đến với anh nếu anh không thông. Nghe chướng tai quá, đôi lần tôi nhẹ nhàng bác Huỳnh Ngự điểm này điểm khác, cố gắng nói cho y nghe đôi chút về chủ nghĩa Mác chính bản, thì y hét rầm lên: “Anh vô đây không phải để cãi lý với tui. Tui không lý luận với anh!”.
Hét rồi y lại ôn tồn:
– Anh phải hiểu rằng đường lối của Ðảng ta trước sau như một là kiên quyết dắt dẫn nhân dân ta thẳng tiến trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ðường lối của Ðảng là duy nhất đúng đắn và vô cùng sáng suốt. Ðảng kiên quyết tiêu diệt mọi kẻ thù bên ngoài cũng như bên trong, không cho chúng phá hoại công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Mọi biểu hiện xét lại, hữu khuynh đều là nấm độc, là cỏ dại, phải nhổ bằng hết. Tui tiếc cho các anh, đi theo Ðảng đã nhiều năm, lẽ ra phải trung thành rất mực, phải tự hào về Ðảng ta, về nhân dân ta thì các anh lại nghển cổ hớp từng lời lếu láo của bọn phản bội xét lại hiện đại…
Y thở dài thương tôi ngu.
Vào cuối giờ một buổi hỏi cung, tôi vờ giương đôi mắt nai vàng lên nhìn y rồi hỏi bằng giọng ngập ngừng:
– Thưa bác, căn cứ những điều bác hỏi tôi, tôi mới chỉ đoán phỏng, xin bác giải đáp cho tôi rõ: phải chăng ở ta có một âm mưu đảo chính thật?
Huỳnh Ngự quắc mắt lên, nhìn tôi chằm chằm.
– Ðó chính là cái anh phải khai ra, chớ không phải cái để anh hỏi tui. Ðừng có vờ vĩnh.
– Tôi không biết thật mà. Chỉ sau khi được bác hỏi tôi mới hiểu rằng có cái đó…
– Tui chỉ hỏi anh có khi mô anh nghe thấy ai nói tới hai tiếng đảo chính không mà thôi. Rõ chưa?
Khó hiểu quá. Y muốn tôi khai về âm mưu đảo chính, mà khi tôi nhắc lại lời y thì y giãy nảy, không dám khẳng định.
– Rõ rồi. Sở dĩ tôi phải hỏi lại là vì tôi chưa từng nghe thấy từ miệng những người tôi quen hai chữ ấy.
Huỳnh Ngự cười nhạt.
– Vậy mà thằng Kiến Giang(15) lại nói khác anh đó…Tui muốn tin anh, nhưng trong trường hợp này tui tin thằng Kiến Giang hơn. Nói chung, anh chưa bao giờ khai báo trước mọi người được một điều gì. Toàn người ta khai rồi, mới đến lượt anh.
– Anh Kiến Giang nói cái gì?
– Thằng Kiến Giang khai khi hắn nói, anh có mặt.
– Tôi nhắc lại một lần nữa: tôi không nghe thấy ai nói tới đảo chính. Cả Kiến Giang, tôi cũng không nghe. Nếu anh Kiến Giang nói thế thì cứ đem hai bên ra đối chất. Ðối chất là cách tốt nhất để tìm ra sự thật.
Huỳnh Ngự cười xuê xoa:
– Thôi, thôi, nếu hắn nói không đúng thời biểu là không đúng, việc chi mà bực bội. Tôi chỉ đặt câu hỏi, anh nghe, suy nghĩ rồi trả lời. Coi như tôi ra cho anh cái đầu bài. Lúc nào anh nhớ ra, nghĩ lại, thấy trả bài được thì trả bài. Bất cứ lúc nào – ban ngày, buổi tối, nửa đêm. Anh chỉ cần nói với ông quản giáo để ông quản giáo báo lại cho tui biết.
Thấy tôi trở về đăm chiêu hơn mọi ngày, Thành hỏi:
– Cậu làm sao vậy?
– Lại cãi nhau. – tôi thác qua chuyện khác – Tôi vẫn chưa được viết thư về nhà. Tới hôm nay gia đình tôi vẫn chưa biết tôi ở đâu. Khốn nạn, chúng nó bày trò bắt cóc tôi để làm gì kia chứ?
– Mặc kệ đời đi, cậu ơi!- Thành ái ngại – Nghĩ ngợi làm quái gì. Mà đâu phải chỉ người ta gây ra cho cậu. Cậu cũng gây ra cho cậu đấy chứ…
– Anh vẫn cho rằng tôi có tội nên người ta mới bắt? – tôi bực bội – Anh vẫn không tin?
– Không phải. Tôi muốn nói nhân nào thì quả ấy. Chúng ta xây dựng nên chế độ này chứ có phải nó từ trên trời rơi xuống, từ dưới đất mọc lên đâu… Thôi thì ráng mà chịu cái quả sinh ra từ cái nhân ta gieo. Chung quanh ta là bốn bức tường bê-tông cốt sắt. Có chết ở nơi này cũng chẳng ai biết, suy nghĩ phỏng có ích gì?
Một câu hăm dọa chăng?
Xem ra Thành không có ý ấy. Anh bình thản quay mặt vào tường chuẩn bị cái nghi thức trang trọng cho điếu thuốc lào. Bao giờ cũng vậy, mỗi khi hút thuốc lào mặt anh nghiêm trang hẳn, trông đến tức cười. Nhờ Thành, biết đâu đấy, thuốc lào đạo cho Việt Nam sẽ hình thành, như một thiền sư Nhật Bản đã sinh ra trà đạo cho đất nước mặt trời mọc.
Tôi đã ở đây bao lâu rồi? Nửa tháng, hai mươi, hai mươi nhăm ngày?
Tôi quên thời gian rồi sao? Có vẻ tôi quên thật. Nhờ quên được tôi mới chịu đựng nổi cảnh tù ngục, rất nặng nề trong thời gian đầu. Nhưng sao lại thế nhỉ? Chẳng lẽ ý chí đã giúp được tôi chìm vào quên lãng? Không, ý chí chỉ giúp tôi tập trung tư tưởng cao độ để đối phó với những mánh khóe của Huỳnh Ngự. Chứ giờ đây, nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy hình ảnh vợ tôi, hai đứa con tôi hiện lên với đầy đủ những nét thân thương. Nhưng rõ hơn cả là hình ảnh mẹ tôi. Bà như đang đứng trước mặt tôi, trong xà lim. Tôi nhìn rõ những sợi tóc bạc của bà, những nét nhăn trên trán, đôi mắt cương nghị và cái nhìn trìu mến. Không có ai trên đời nhìn tôi như thế. “Chết đứng hơn sống quỳ, con ạ!”, mẹ tôi nói.
– Nghĩa là ta phải sống thế nào?
– Tôi muốn nói: con người phải ý thức được phận mình. – Thành thủng thẳng – Mình đã rơi vào đây thì cứ cầm bằng chết rồi là hơn. Có thế sống mới dễ. Thật đấy, đã vào đây con người không còn là người nữa. Cứ như thể Hỏa Lò là một lằn ranh, bước qua nó mình hết là mình. Có lẽ mục đích của nhà tù là thế. Nó làm cho mình có cảm giác rời bỏ cái thế giới mà mình sống, rời bỏ hẳn, không trở lại…
– Chỉ có nhà tù ta mới như vậy. Nhà tù khác đâu có thế.
– Tôi không biết ở các nhà tù khác thế nào, nhưng tôi nghĩ trên thế giới chắc cũng có những nhà tù giống nhà tù mình.
Tôi hiểu anh muốn ám chỉ nhà tù của phát-xít Ðức.
Buổi tối, tôi nghe có tiếng búa đóng giống như tiếng đóng nắp ván thiên.
– Anh đã thấy những cái chết trong xà lim chưa?
– Thấy chứ. Tội nghiệp lắm.
– Nó thế nào?
– Còn thế nào nữa! Tù xà lim chết một mình một bóng. Không ai vuốt mắt, không rửa tội, thậm chí muốn chia tay với các bạn tù cũng không được. Một cái giấy báo tử, thế là hết. Không giải thích. Không chia buồn. Ðã có một con người. Rồi không có nó nữa. Tù chết đã có tù sống chôn. Trong nghĩa địa tù. Mạng con người, cậu ơi, ở nước ta rẻ lắm.
– Người ta không khám nghiệm y tế để kết luận về nguyên nhân cái chết sao?
Thành cười gằn, khe khẽ.
– Sẽ có một biên bản chứ. Một mảnh giấy ghi loằng ngoằng vài chữ, do một y sĩ bổ túc(16) ký tên. Mà cũng chỉ làm để đấy, người nhà không đòi thì cũng chẳng ai cho xem. Phần nhiều người ta không dám đòi, đòi xem biên bản là thiếu tin tưởng ở Ðảng…
Tôi nghĩ tới cái chết của tôi. Tôi cho rằng không nên ngu để sống một đời tù không biết đến ngày về.
– Thế cho nên chẳng suy nghĩ làm gì cho thêm đau lòng. Ðời tù nó thế. Biết điều để chấp nhận thì sống nhẹ nhàng hơn. Không biết điều, cứ giãy giụa chỉ tổ trầy da sứt vẩy…
Chúng tôi nằm im lặng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ.
Anh không có ý dọa tôi. Chẳng qua ở xà lim lâu người ta dễ thành triết gia vườn.
(1) Trong bộ Luật hình sự không có tội danh này. Tuy nhiên nó được sử dụng tùy tiện, như rất nhiều tội danh khác, đại loại như tội nói xấu lãnh đạo, tội xuyên tạc chính sách của Ðảng và Nhà nước, hoặc tội lợi dụng quyền tự do dân chủ…
(2) Theo cách thức họp Ðại hội được Ban tổ chức Trung ương đề ra thì các đại biểu được các cấp cơ sở bầu đi dự Ðại hội còn phải qua cái gọi là xét duyệt tư cách đại biểu rồi mới được công nhận là đại biểu chính thức. Việc xét duyệt tư cách đại biểu thuộc thẩm quyền Ban tổ chức Trung ương. Bằng cách đó Thọ gạt ra ngoài bất cứ ai không được lòng ban lãnh đạo Ðảng đương nhiệm, để ban lãnh đạo này tiếp tục nắm quyền trong khóa sau.
(3) Chỉ các cán bộ có thâm niên công tác cách mạng, lực lượng kế cận, thường được bổ xung vào Trung ương khi khuyết, không phải một tổ chức.
(4) Xem cuốn “Giọt Nước và Biển Cả”.
(5) Hóa ra không phải Hồ Chí Minh là người đầu tiên ví Việt Nam và Trung Quốc như môi với răng. Vào tháng 4.1941, khi những người cách mạng Việt Nam tổ chức Ðại hội thành lập “Việt Nam dân tộc giải phóng đồng minh hội” ở Tịnh Tây (Hoa Nam), chủ nhiệm hành dinh khu Tây Nam của quân đội Tưởng Giới-thạch là Lý Tế-thâm có gửi đến một bức trướng với bốn câu thơ mừng:
Trung-Việt dân tộc
Thuần xỉ quan thiết
Tiền sỉ đồ tồn
Duy thiết dữ huyết
Hoàng Văn Hoan dịch ra tiếng Việt:
Hai dân tộc Trung-Việt
Như môi răng quan thiết
Rửa nhục mưu sống còn
Chỉ có sắt và huyết
(Hoàng Văn Hoan – Giọt nước trong biển cả, tr.154, in tại nước ngoài, không rõ Nhà xuất bản).
(6) Thị thực xuất cảnh, nhập cảnh.
(7) Quân Trung Quốc đóng trên lãnh thổ toàn khu mỏ Quảng-Ninh, toàn khu tự trị Việt Bắc, một phần khu Tây Bắc và dọc theo quốc lộ 1 tới tận Yên Sở (Nam Hà Nội).
(8) Sự kiện Bác và Trung ương yêu cầu Mao chủ tịch cho quân đội Trung Quốc vào bảo vệ miền Bắc Việt Nam (Hoàng Văn Hoan, Giọt Nước Trong Biển Cả, sách đã dẫn) đến nay mọi người đều đã biết.Tinh thần bảo vệ Tổ quốc theo kiểu mời giặc vào nhà còn thể hiện trong việc thủ tướng Phạm Văn Ðồng thừa nhận lãnh hải do Trung Quốc tuyên bố trong một công hàm gửi Tổng lý Quốc vụ viện Chu Ân Lai năm 1958 chính là khẳng định chủ quyền của Trung Quốc trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chỉ cốt để hai quần đảo không lọt vào tay chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
(9) Về cuối cuộc Ðại cách mạng văn hóa vô sản Hồng vệ binh có cả súng, nhưng đến lúc đó Mao Trạch-đông đã phải vội vã giải tán đám âm binh lộn xộn, sợ chúng làm loạn, quật chết thầy.
(10) Người dân Trung Quốc trong Ðại cách mạng văn hóa vô sản buộc phải thuộc lòng Mao tuyển. Người đi chợ mà không thuộc một đoạn trích Mao tuyển thì không được vào chợ. Có nhiều người tối dạ, phải đứng ngoài mà học cho thuộc lấy một đoạn Kinh thánh Ðỏ để được vào.
(11) Cơ quan ngôn luận của Trung ương Ðảng lao động Việt Nam.
(12) Phê bình, mắng mỏ.
(13) Vợ chính thức sau cùng của Mao Trạch-đông.
(14) Nhưng tới đầu những năm 80, họ lại nói rằng “những người xét xử (vụ “tứ nhân bang giao”) đổ riệt mọi tội lỗi trong cách mạng văn hóa cho Lâm Bưu và bè lũ bốn tên, trong khi chính Mao là người “đích thân phát động và lãnh đạo cuộc đại cách mạng văn hóa vô sản”, rằng trong suốt quá trình xử án Giang Thanh một mực khai là “tôi làm theo chỉ thị của Mao chủ tịch”. Họ nói “Ðặng (Tiểu Bình) và những người tán dương tư tưởng Mao Trạch-đông đều đã được hun đúc trong chủ nghĩa dân tộc sô-vanh” (trích trong cuốn Chủ nghĩa Mao không có Mao” Nxb Thông tin Lý luận, Hà Nội 1982).
(15) Nguyên tỉnh ủy viên Quảng Bình, phó tổng biên tập hay ủy viên biên tập tạp chí lý luận của Ðảng, tờ “Học tập”. Ông bị coi là một lý thuyết gia trong “nhóm xét lại hiện đại chống Ðảng”. Do sau khi ra tù vẫn tiếp tục viết những bài báo phê phán sự du nhập có hại chủ nghĩa Mác và mô hình cách mạng vô sản kiểu Stalin vào Việt Nam ông bị đưa ra tòa và chịu 15 tháng án treo vì…”tiết lộ bí mật nhà nước” vào năm 1996, trong vụ xử những người dân chủ Hà Sĩ Phu, Lê Hồng Hà.
(16) Trong chế độ xã hội chủ nghĩa có nhiều bác sĩ, kỹ sư không học qua hệ chính quy mà chỉ qua những lớp bổ túc. Những cán bộ y tế loại này thường xuất thân từ những thành phần cơ bản – công nhân, nông dân, có lý lịch trong sạch hoặc nhờ có họ hàng bà con với những người có quyền chức (tương tự tầng lớp đặc quyền đặc lợi được gọi là nomenklatura ở Liên Xô cũ).