Trong những nhóm chống đối với việc trở về chấp chánh của ông Diệm, trước hết có nhóm trí thức thân Pháp như Nguyễn Đắc Khê, Nguyễn Quốc Định, Bửu Kính v.v… Họ muốn vận động cho một người trong nhóm họ là Bửu Lộc về lập chính phủ thay Nguyễn Văn Tâm nói là một chính phủ chuyển tiếp để chuẩn bị cho ông Diệm trở về sau này, chứ để cho ông Diệm trở về ngay lúc đó thì sẽ có nhiều va chạm và đổ vỡ. Nhưng nhóm chống đối mãnh liệt nhất là nhóm Việt kiều Cộng sản hay thân cộng mà lãnh tụ là Nguyễn Khắc Viện.
Viện là người Hà Tĩnh đồng quê với tôi, đã sang Pháp học Y Khoa vào khoảng 1936. Lúc tôi ở Pháp tôi đã quen thân với Viện nhiều. Vào khoảng 1942, Viện cùng với ba sinh viên khác, cũng người Hà Tĩnh là Lê Thiêm, Hoàng Xuân Nhĩ và Trần Du, vì tưởng rằng Đức Nhật sẽ thắng Pháp và Đồng minh, nên đã trốn sang Đức với mục đích nhờ Đức giúp thành lập một mặt trận chống Pháp dành lại độc lập cho Việt Nam. Nhưng khi Đức bại trận thì họ lại trở về Paris và khi cụ Hồ sang Pháp điều đình với Pháp thì họ đã nhập hàng ngũ Cộng sản ngay và từ đó Viện đã trở thành lãnh tụ hăng say và đắc lực của nhóm Việt kiều Cộng sản.
Khi nghe tôi trở lại Paris để vận động cho ông Diệm trở về nước chấp chánh, Viện đã tìm cách gặp tôi để khuyên tôi bỏ ý định ấy. Một ngày sau khi tôi đã gặp ông Diệm và Nguyễn Đệ, Viện đã điện thoại cho tôi và xin đến gặp tôi tại nhà ông Auberty vào 9g tối hôm ấy. Tôi trả lời bằng lòng tiếp, sau khi đã xin phép ông Auberty.
Nghe tôi báo tin sẽ tiếp một cán bộ Cộng sản cao cấp tại nhà, ông Auberty hoảng hồn, lo lắng ra mặt, nên mặc dù tôi đã giải thích kỹ với ông, ông vẫn quyết định hủy cuộc đi chơi tối nay, để:
– Tôi sẽ ngồi canh chừng ở phòng bên cạnh trong khi cha tiếp “tên Cộng sản”.
Đúng giờ hẹn, Nguyễn Khắc Viện mang theo hai người tùy tùng đến và tôi tiếp bọn Viện ở phòng khách.
Viên sứ giả của cụ Hồ ở Ba-Lê tươi cười bắt tay tôi, tíu tít nhắc nhở một lô bạn bè cũ như Phạm Huy Thông, Hoàng Xuân Nhĩ, Lê Thiêm v.v… Nhưng rồi cuộc gặp gỡ cũng vô đến chuyện chính. Đúng như tôi đã tiên đoán phần nào, vấn đề khiến Viện phải đến gặp tôi vẫn chỉ là chuyện ông Diệm. Viện nói với tôi:
– Tôi nghe nói cha sang đây để vận động cho ông Diệm về nước chấp chánh?
Thấy câu chuyện đã vô đề, tôi vẫn tươi cười hỏi Viện:
– Chắc chỉ vì chuyện này mà anh đến thăm tôi phải không?
Viện thật thà đáp:
– Thưa cha đúng vậy, sở dĩ tôi phải xin gặp cha là vì nếu cha cố đưa ông Diệm về nước lúc này, tôi e hậu quả sẽ rất tai hại.
Tôi ôn tồn bảo với Viện:
– Anh đã tới thăm, chắc sẽ còn cho tôi nghe nhiều chuyện hay lắm, nhưng trước hết tôi thấy cần phải nói lại với anh, tôi đâu có quyền thế chi mà tính vận động cho ông Diệm về nước được. Tôi ghé Ba-Lê chỉ là để thăm ông và thăm bạn hữu mà thôi, còn việc ông có về hay không hẳn anh thấy rõ còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác, nào Pháp, nào Bảo Đại…
Viện hơi cúi mặt xuống, cười có vẻ am hiểu:
– Tôi có nghe nói lại là cha đã gặp ông Diệm và sáng nay mới gặp Nguyễn Đệ?
Thấy Viện có vẻ biết hết đường đi nước bước của mình, tôi đành nói thẳng:
– Có, tôi có đến thăm ông Diệm và gặp Nguyễn Đệ thật. Anh đã biết vậy, tôi thấy cũng cần nói với anh. Tuy chẳng có quyền để vận động cho ông Diệm, nhưng tôi thật tình mong cho ông Diệm về nước. Tôi còn biết rõ là quốc dân lúc này cũng rất cần ông về. Tôi không hiểu ý kiến anh ra sao về việc này?
– Như vậy chắc cha đã thấy rõ rằng ông Diệm lâu nay là lá bài được Mỹ ủng hộ. Nếu đưa ông Diệm về nước ắt có Mỹ theo sau. Nước ta đã kháng chiến chống Pháp, nay ông Diệm đưa Mỹ vô dựa vào thế lực Mỹ, e phải có nội chiến khốc hại hơn nữa.
Hai thanh niên tùy tùng của Viện từ lúc chào tôi xong, vẫn yên lặng ngồi không góp một lời nào. Chờ Viện nói xong, tôi lần lượt nhìn từng người trong bọn Viện, rồi mới chậm rãi nói:
– Việc “ông Diệm là lá bài của Mỹ” anh vừa nói, tôi chưa hiểu sao, nhưng nếu chỉ có nghĩa là ông Diệm được Mỹ ủng hộ, thì cũng không ảnh hưởng gì đến việc dân chúng ủng hộ ông, mong muốn ông về chấp chánh. Chắc anh còn biết rõ hơn tôi, rằng nước mình là nước nhỏ, cho tới nay thật sự chưa hề có phe phái nào không phải nhận một vài ảnh hưởng từ ngoài vào. Bảo Đại được Pháp ủng hộ, cụ Hồ thì được Nga và Trung cộng ủng hộ. Nếu phải so sánh chọn lựa giữa Tàu, Pháp, Mỹ, tôi thấy Mỹ còn chưa nguy hiểm bằng Tàu và Pháp.
Thấy Viện và hai viên tùy tùng chăm chú nghe, sẵn đà, tôi nói luôn một thôi dài:
– Các anh cũng đã thấy rõ những kinh nghiệm lịch sử. Với Mỹ, chế độ thực dân kiểu cũ đã cáo chung. Mỹ đã thắng Nhật, rồi lại giúp Nhất phục hưng kinh tế mạnh mẽ. Mỹ đã vào Âu Châu, rồi cũng lại giúp Âu Châu. Áp lực của Mỹ, nếu có theo chân ông Diệm dồn vào Việt Nam, cũng chỉ là một thứ áp lực kinh tế. Còn bên các anh, con đường nguy hiểm hơn nhiều vì sau lưng các anh là Trung cộng. Vì quyền lợi của Tàu, Mao Trạch Đông sẽ phải thôn tính Đông Nam Á.
Thấy tôi nhắc đến Mao một cách long trọng, Viện phản ứng ngay:
– Chuyện cha lo sợ không thể xảy ra được vì Mao chủ tịch là một người Cộng sản chân chính không thể đi ngược lại chủ nghĩa Mác-Lê được.
– Điều anh nói, tôi thấy cần phải xét lại. TiTô cũng từng được các anh gọi là Cộng sản chân chính, vậy mà tại sao bây giờ TiTô chống lại Nga, tại sao bây giờ Nga mạt sát TiTô. Ai cũng biết chỉ là vì quyền lợi quốc gia mà thôi. Nga dù là Cộng sản, vẫn không rũ bỏ cái quyền lợi mà họ mưu tính từ thời Nga hoàng, là chiếm vùng Balkan. Và TiTô, vì chủ quyền Nam Tư phải chống lại sự xâm chiếm này. Có gì bảo đảm rằng sự chân chính của Mao với chủ nghĩa Chính sách hơn được TiTô và Sít-Ta-Lin đâu.
Tôi ngừng lại, có ý chờ phản ứng của Viện và đồng bọn, xem họ còn bào chữa cho Mao đến mức nào nhưng chỉ thấy hai tùy tùng nhìn Viện, nửa như thắc mắc mà Viện thì lúng túng ra mặt. Tôi laị nói tiếp:
– Các ích kỷ cá nhân, và quốc gia là thứ khó thể lấn át nổi. Trước Cộng sản, cũng đã có Đạo Thiên chúa đem thuyết bác ái ra để nối liền các dân tộc với nhau mà rồi cũng vẫn không thống nhất nổi Âu Châu. Chẳng những thế, các anh còn thấy: tại sao lại có Chính thống giáo ở Hy Lạp? Chỉ vì Hy Lạp chống lại Giáo hội La Mã. Anh Viện là người đã từng nghiên cứu về tôon giáo tôi chắc anh cũng thừa rõ là các lãnh tụ Cộng sản, nếu có thần phục vào lý thuyết Mac-Lê, cũng chỉ đến như Âu Châu từng tùng phục giáo lý Thiên Chúa giáo là cùng. Do đó, tôi đề nghị anh em nên xét lại cái giấc mơ thế giới đại đồng của anh em. Đừng để vì một giấc mơ mà quên đi cái thực tế của dân tộc.
Câu chuyện cứ như thế mà lan man kéo dài đến 12 giờ đêm. Khi ra về, nét mặt Viện dường như không còn vẻ quyết liệt tự tin như khi mới đến gặp tôi nữa, và đặc biệt là hai thanh niên tháp tùng Viện, khi mới đến gặp tôi chỉ gật đầu nhẹ mà khi ra về các anh em cúi đầu thấp hơn và bắt tay tôi dường như có vẻ chặt chẽ thân ái hơn.
Tôi không hiểu bọn Viện bây giờ ra sao, hai thanh niên theo Viện bây giờ ở đâu, nhưng từ nhiều năm qua, mỗi khi nhớ đến họ, tôi vẫn có một chút sung sướng ngầm, vì thấy mình tin vào sức mạnh của lẽ phải hơn một chút.