Vào những năm đầu của thập kỷ sáu mươi (1960), trên các mặt báo trung ương và địa phương các trang thơ tràn ngập đề tài sản xuất, chiến đấu, ca ngợi các hợp tác xã điển hình, các nông trường, các nhà máy, hầm mỏ tiên tiến, nào “sóng Duyên Hải, gió Đại Phong”, nào gương người tốt việc tốt, tố cáo tội ác Mỹ Diệm…, thôi thì đủ thứ. Bỗng dưng, trên một trang thơ tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam xuất hiện một bài thơ tứ tuyệt, nhan đề: Nghe nhạc Strauss. Tên tác giả lạ hoắc: Tuân Nguyễn.
Đã hơn ba mươi năm trôi qua kể từ ngày ấy, nhưng bài thơ nọ vẫn đọng lại tinh khôi trong trí nhớ của tôi.
Sóng sông Hồng bỗng xanh màu Danube
Nhạc bồng bềnh trôi tới các vì sao…
Trời lung linh khẽ chao mình theo nhịp
Những người nước lạ phải lòng nhau…
Đề tài và nội dung bài thơ lạc lõng giữa biển thơ- hiện-thực sục sôi, nóng bỏng, thơ cho cuộc đấu tranh giai cấp “long trời lở đất”, khẳng định con đường “ai thắng ai”.
Như thể tự thấy mình chẳng giống ai, bài thơ đã tứ tuyệt rồi mà vẫn còn nép mình ở góc cuối trang báo, khiêm nhường, nhỏ thó với vẻ ngơ ngác, 10 lắng, nhìn lên những bài thơ bốc lửa, hừng hực khí thế đấu tranh, sang sảng lạc quan cách mạng của những tên tuổi thời thượng…
Có điều lạ là ngay sau khi xuất hiện, bài thơ nhỏ bé nọ lập tức nổi tiếng, được nhiều độc giả mến mộ thơ ngày đó nhắc nhở, truyền tụng, nhiều đôi trai gái chép vào sổ tay tặng nhau… Mùa hè năm 1950, Trảng cát Phong Chương bắc Thừa Thiên bị rang bỏng dưới cái nắng như dội lửa. Gió Lào khô rát thổi tung cát thành những đám máy, phủ trùm lên một vùng cỏ cây cằn cỗi, nhuộm màu cháy xém. Tôi lúc đó là tiểu đội trướng một tiểu đội mũi nhọn trong đại đội chủ công trung đoàn quân chủ lực 101. Tôi cùng tiểu đội dầm mình trong cát bỏng, gió Lào, mải mê luyện tập môn đánh bộc phá, chuẩn bị cho chiến dịch hè thu.
Tiểu đội tôi trẻ nhất đại đội, toàn những chàng trai 17, 18, 19… Tôi đang làm thị phạm động tác ôm thủ pháo chuẩn bị lao lên đột phá khẩu thì cậu Tiệm, liên lạc viên của đại đội, tay xách tiểu liên “Tuyn”, đầu đội mũ nan giắt đầy lá ngụy trang, chạy như ngựa tế băng qua những động cát, nhảy phóe qua những dãy xương rồng gai mặt nguyệt, chạy thẳng đến bãi tập. Tiệm đứng nghiêm, đưa tay lên vành mũ chào, vừa nói, vừa thở: “Báo cáo tiểu đội trường? Đại đội trưởng triệu tập đồng chí về ngay đại đội bộ! Hết!”.
Tôi giao tiểu đội lại cho tiểu đội phó tiếp tục khoa mục tập. Khoác lên vai khẩu tiểu liên “Mát” tôi hộc tốc chạy theo Tiệm về đại đội bộ. Tôi đoán chừng đại đội trưởng điều động tiểu đội tôi đi phối hợp chiến đấu với một đơn vị nào đó.
Đại đội trưởng chỉ hơn tôi ba bốn tuổi, cũng trẻ măng, nhưng đã được tặng thưởng huân chương Quân công. Anh đang ngồi trước bộ tràng kỷ bằng tre. Trên bàn một siêu nước lá vàng và mấy cái bát sành. Ngồi đối diện với anh là một thanh niên trạc tuổi tôi, dáng dấp học trò, tóc chải ốp, áo sơ mi màu trứng sáo, quần tây xám, chân dận dép săng đan da. Anh ta đeo kính trắng, cái miệng thật rộng và thật tươi:
– Báo cáo Đại đội trưởng! Tiểu đội trưởng Quán có mặt!
Đại đội trưởng chỉ chiếc ghế tre chỗ cạnh anh, nói:
– Quán ngồi xuống đây.
Anh rót cho tôi một bát nước lá vàng đắng ngắt vị bộc phá.
Chờ tôi uống cạn bát nước và kéo vạt áo quân phục sũng mồ hôi lau gương mặt sạm đen, đầy bụi cát, anh giới thiệu một thanh niên lạ mặt ngồi đối diện:
– Đồng chí Nguyễn Tuân đây hoạt động trong phong trào học sinh kháng chiến nội thành. Tuân học trường Providence, đỗ tú tài toán. Vừa rồi, sau vụ học sinh bãi khoá, Tuân bị lộ. Thị uỷ Huế bố trí cho Tuân theo đường dây lên chiến khu. Nguyện vọng của Tuân là được gia nhập quân đội. Trung đoàn tiếp nhận, bố trí đồng chí ấy làm việc tại phòng Chính trị. Nhưng Tuân lại tha thiết muốn được cầm súng chiến đấu. Trên cử đồng chí ấy về đại đội ta. Tôi đã trao đổí với chính trị viên. Chúng tôi quyết định: Tuân sẽ về tiểu đội của Quán. Qua thư giới thiệu của Phòng chính trị trung đoàn, thì Tuân giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh, biết cả chữ Hán, lại có khả năng sáng tác văn thơ… Chúng tôi nghĩ hai đồng chí cùng trạc lứa tuổi, lại cùng thích văn thơ, chắc sẽ hợp nhau…
Tôi đăm đăm nhìn người đội viên mới của tiểu đội mình. Ý nghĩ đầu tiên là cậu ta quá thư sinh, đã thế dáng dấp lại còm nhom, hai cánh trần nom như hai ống quyển, và hai cẳng chân chắc cũng không to hơn. Thế mà hành trang một người lính trận thì nào súng, cơ số đạn, lựu đạn, bộc phá, ruột tượng gạo, ống muối, ba lô… Khi cần tuýt một tiếng còi chỉ huy, tất cả phải nằm gọn trên lưng, trên vai, quanh thắt lưng chỉ trong vòng ba phút. Và phải lên đường hành quân bất kể ngày đêm, bất kể sấm chớp, mưa bão, lửa đạn…Tự nhiên tôi đâm giận hắn. Chắc khi ngồi mài đũng quần trên ghế nhà trường, cậu ta say sưa đọc câu thơ “Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”, mơ mộng thấy đời lính trận mê ly lắm. Chỉ cần mấy hôm thôi, cậu ta sẽ thấm đòn thế nào là “phai bạc áo hào hoa”. Sao hắn ta không ở lại trung đoàn bộ làm lính văn phòng có hơn không?
“Đồng chí Quán vào Vệ Quốc đoàn từ trước ngày Huế nổ súng – lời giới thiệu của Đại đội trường về tôi cho Tuân nghe cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi – Quán đã tham gia chiến đấu ở mặt trận Huế, rồi mặt trận phía Nam, đèo Phát Tượng, Truồi, Nong… Tuy cùng trạc lứa tuổi với đồng chí, nhưng Quán là cựu binh của Trung đoàn, giãi dầu trận mạc không thua chúng tôi đâu. Quán còn là cây văn nghệ quần chúng của đại đội. Chúng tôi mong hai cậu sẽ thân thiết nhau”. Tôi và Tuân Nguyễn biết nhau từ đó. Khi hai chúng tôi đã khá thân nhau, tôi thường đọc cho Tuân nghe thơ tôi làm. Những bài thơ tràng giang đại hải, sặc mùi lính tráng. Một hôm, nhân bàn chuyện thơ, Tuân hỏi tôi:
– Này, cậu có biệt hiệu không?
– Có chứ, tôi đáp. Lúc đầu mình lấy biệt hiệu là Lúa Xanh. Nhưng sau đó nghe nó thối thối làm sao ấy, nên bỏ. Đang cố rặn ra một biệt hiệu khác, nghe đỡ nặng mùi hơn, nhưng chưa ra… Khi mới tập tọng làm thơ, người ta ai cũng nghĩ rằng việc quan trọng đầu tiên là phải có một cái biệt hiệu thật kêu, kiểu như các thi sĩ nổi danh: Tản Đà, Kinh Kha, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, T.T.K.H., Hoàng Cầm…
Tuân nói:
– Mình cũng từng nghĩ vậy. Rồi thấy biệt hiệu, biệt hiếc, vô duyên òm… Tên cha mẹ đặt cho thế nào cứ để nguyên nó thế ấy. Khốn nỗi, tên mình lại trùng với ông Nguyễn Tuân Vang bóng một thời quá nổi tiếng. Mình đành xoay ngược nó thành Tuân Nguyễn. Tuân Nguyễn! Nghe cũng vô duyên, nhưng thôi, đành vậy.
– Cậu thấy thơ mình thế nào? – tôi hồi hộp hỏi Tuân, trong bụng chờ được Tuân khen. Cả đại đội khen thơ mình, nhiều cậu còn chép để học thuộc đấy.
Tuân Nguyễn nhìn tôi qua tròng kính cận dầy cộp, chợt mỉm cười. Cái miệng Tuân cười thật rộng, thật tươi…
– Thơ của cậu, hai mươi câu đầu để giữ gìn trật tự, hai mươi câu cuối chuẩn bị cho người nghe vỗ tay, còn đoạn giữa là vè…
Tôi không ngờ thơ của mình bị ông bạn mới “mạt sát” đến thế. Tôi đau quá, nổi sùng, chỉ muốn đạp cho hắn một đạp. Nhưng tôi đã ghìm được, vì nhớ đến chức danh Tiểu đội trưởng của mình. Tiểu đội trưởng mà đạp đội viên vì thơ bị chê thì ê quá. Nhưng Tuân hình như không để ý gì đến thái độ giận dỗi của tôi. Cậu ta đọc cho tôi nghe những bài thơ cậu ta làm, đủ các thể loại: tứ tuyệt, ngũ ngôn, thất ngôn bát cú, lục bát, những bài thơ mỗi đoạn bốn câu ba vần… Mặc dầu tự ái một cây, tôi phải cay đắng nhận rằng bên cạnh những bài thơ ý tứ hàm súc đầy nhạc điệu của Tuân, thơ tôi đúng là những bài vè tràng giang đại hải, không chối vào đâu được. Từ đó đến nay đã hơn bốn mươi năm trôi qua, mỗi lần tôi đặt bút định viết một bài thơ, lời nhận xét vừa nghiêm khắc, vừa giễu cợt của Tuân lại vang vọng bên tai tôi, làm tôi chùn bút.
Một đêm ở chiến khu Câu Nhi, hai chúng tôi nằm trên sạp nứa, gác vế lên nhau, Tuân khuyên tôi:
– Cậu phải học luật thơ Đường làm cái vốn cơ bản, sau đó phát huy thành các thể thơ tự do, mới hy vọng thơ có thể khá lên được.
Tôi mộng ước được làm nhà thơ, tôi chấp nhận lời khuyên của Tuân. Tôi hạ quyết tâm phải học thành thục luật thơ Đường. Ban ngày tôi dạy Tuân các môn xạ kích, ném lựu đạn, đâm lê, đánh bộc phá… Đêm đến, bên bếp lửa bập bùng chiến khu, Tuân giảng dạy tôi luật bằng trắc, luật các vế đối, luật cấu trúc các thể loại thơ Đường: tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, ngũ ngôn… Tôi dùng mũi đinh nhọn ghi lời giảng dạy lên báng súng để lúc nào cũng có thể ôn lại được. Tôi tập làm thử một số bài thơ theo cách Tuân dạy. Nhưng làm xong tôi phải vo viên liệng ngay vô bếp, không dám đọc cho ai nghe. Trong nghề thơ, tôi tự ví mình như anh chàng ham trò đánh phau nhưng chỉ quen dùng độc một môn “võ dân gian” là đá củ đậu, ba năm võ tàu không bằng một chầu đá củ đậu. Bây giờ tôi phải học đâm lê theo đúng quy tắc, một bước tiến, hai bước lùi… gạt trái, đâm phải… làm sao tiếp thu nổi.
Mỗi lần nghĩ về người đội viên mới của mình, lòng tôi lại thấy buồn vì ghen tài và đố kỵ: “Hắn mới là người được trời sinh ra để làm thi sĩ. Tên tuổi hắn nay mai sẽ lẫy lừng trên thi đàn đất nước. Còn mình dù cố gắng đến hết đời cũng chỉ là một anh văn nghệ quần chúng, ca dao, hò, vè…”. Để dịu bớt đau khổ, tôi tự an ủi: “Nhưng về mặt binh nghiệp mình sẽ hơn hắn. Khi hắn nổi danh về văn thơ, thì mình sẽ lên đến chức Sư đoàn trường. Vậy là huề”!
Những năm 1950, 1951, 1952 là những năm gian lao nhất của chiến trường Thừa Thiên. Những trận lụt bão chưa từng thấy cuốn phăng cả một làng ở bên Phá Tam Giang. Biển Thuận An nổi sóng thần, ném những thuyền đánh cá lớn lên bãi cát như ném cái vỏ trứng. Giặc Pháp hùa với thiên tai tổ chức những trận càn lớn, phối hợp cả thuỷ lục không quân, tăng pháo; quyết xoá sổ trung đoàn 101 chúng tôi. Chúng tôi phải đánh những trận đẫm máu và tổn thất khá nặng nề.
Nhưng nỗi gian lao thường trực của chúng tôi chưa phải là lụt bão, bom đạn, mà là đói. Đói lả người. Đói mờ mắt. Có đận sáu tháng liền, chúng tôi phải ăn thứ mủn, có mùi hôi thối như phân người ôi, mà muốn có thứ gạo mục thối đó, chúng tôi phải vượt qua những hệ thống đồn bót dày đặc, luồn sâu vào hậu địch, nnh rập hàng trăm họng súng phục kích… Nhiều anh em chúng tôi bị giặc bắn gục trên đường đi lấy gạo. Nhiều ruột tượng gạo mang về đến đơn vị, xổ ra, đỏ lòm những máu, nhưng không thể bỏ đi. Chúng tôi tìm đủ cách để vuốt gạo cho sạch máu. Những hạt gạo mục xốp hút máu như giấy thấm. Chúng tôi ngâm gạo xuống suối, nhờ nước rửa máu. Ngâm suốt đêm, sáng vớt gạo lên vẫn có màu hồng hồng. Chúng tôi bưng bát cơm chan máu đồng đội, nhắm mắt nhắm mũi lùa vào miệng thật nhanh và nuốt chửng… Mỗi chén cơm chúng tôi trộn một phần tư chén ớt bột, loại ớt hiểm, cho dịu bớt vị tanh của máu…
Từ ghế nhà trường, Tuân Nguyễn nhảy thẳng vào đơn vị tôi đúng thời điểm khốc liệt đó. Hôm đầu tiên, tôi còn nhớ như in, Tuân bưng bát cơm chan máu đồng đội lên ăn, mới và được hai miếng, anh nôn thốc nôn tháo. Tôi nói với Tuân: “Cứ trộn thật nhiều ớt vô lùa thật nhanh, không nên chần chừ”. Tuân ứa nước mắt nói: “Nhưng mình không quen ăn vậy… Mình chỉ sợ anh em cho mình là học sinh tiểu tư sản, không chịu được gian khổ… Cậu nói giúp với anh em thông cảm cho mình… lần sau mình sẽ cố gắng không như thế nữa…”.
Đêm đó, họp tiểu đội, Tuân đứng lên xin lỗi, đã làm cho bữa ăn của anh em mất ngon. Tuân còn nói thêm: “Ngay cả trong thiên anh hùng ca bất hủ Odyssée của Homère, cũng không có hình ảnh nào dữ dội và bi tráng như bát cơm thấm máu mà chúng ta ăn… Tôi sẽ ghi khắc nó vào ký ức; và nếu qua cuộc chiến tranh mà tôi còn sống, nhất định tôi sẽ đặt nó vào trong tác phẩm của tôi”. Anh em trong tiểu đội chẳng hiểu Tuân muốn nói gì, nhưng vẻ mặt và giọng nói của cậu ta làm họ cảm động. Họ còn xúm lại an ủi, động viên: “Đồng chí cứ ăn năm, bảy lần rồi sẽ quen thôi”.
Điều làm tôi lo lắng băn khoăn hơn cả là chuyện cử Tuân đi lấy gạo, Tuân chưa quen chiến trận, vừa chậm, vừa yếu, lại cận thị. Nếu cử cậu ta vào địch hậu lấy gạo, chết dễ như chơi. Nhưng tôi là tiểu đội trưởng, việc phân công anh em mình vào địch hậu lấy gạo, phải hết sức công bằng. Mỗi lần họp tiểu đội phân công, tôi phải tìm đủ cách để tránh cho Tuân công việc nguy hiểm này: “Đồng chí Tuân ở nhà làm bích báo cho đại đội”. “Đồng chí phải viết xong cho cả tiểu đội khẩu hiệu: Rèn cán chỉnh quân để cài lên mũ trong đợt tổng diễn tập sắp đến”. “Đồng chí phải hoàn thành bài thơ nói lên ìòng quyết tâm, tinh thần hăng say luyện tập trong thời gian qua của tiểu đội ta, để đọc vào dịp liên hoan văn nghệ kết thúc đợt luyện tập!”.
Tuy vậy, cứ làm mãi cách đó, anh em bắt đầu xì xào phản ứng. Họp tiểu đội, anh em pỉlê bình tôi hết sức gay gắt: “Đồng chí tiểu đội trưởng thiên vị đồng chí Tuân!”. Có anh còn chua chát hơn: “Dù đồng chí Tuân có đậu tú tài, có văn hay chữ tốt, nhưng đã ăn thì cũng phải đi lấy gạo như anh em”. Tuân đứng bật ngay dậy, yêu cầu được phân công đi lấy gạo, nhưng tôi cương quyết gạt đi. Tôi đanh giọng, nói: “Tôi không thiên vị ai hết! Làm bích báo, viết khẩu hiệu, làm thơ cũng cần thiết như việc đi lấy gạo. Tôi sẽ phân công đồng chí Tuân đi lấy gạo tối nay. Nhưng hiện đồng chí phải dịch truyền đơn địch vận ra tiếng Tây, do phòng Chính trị trung đoàn yêu cầu, mà phải dịch gấp. Đây, truyền đơn địch vận trung đoàn mới giao về hôm qua đây. Giấy bút đây! Đồng chí nào có thể đảm nhiệm công việc này thay đồng chí Tuân, xin giơ tay cho biết!” Thế là cả tiểu đội ngồi ngay như phỗng. Quá nửa tiểu đội tôi trình độ văn hóa lớp một, lớp hai, số còn lại vừa đọc vừa đánh vần. Trong cuộc đời chiến sĩ của tôi, nếu có một niềm tự hào nào đó đáng ghi nhớ, thì đó chính là niềm tự hào: trong những năm gian truân nhất của cuộc kháng chiến chín năm, tôi đã tận dụng quyền lực tiểu đội trưởng để bảo vệ một nhà thơ tương lai của đất nước. Sang cuối năm 1953, hai chúng tôi phải xa nhau vì nhiệm vụ của chiến trường. Tôi được cử đi học trường Quân chính Bình Trị Thiên. Tuân Nguyễn được bổ sung vào đơn vị tình nguyện quân mặt trận Trung Lào.
Mãi đến năm 1957 chúng tôi mới gặp lại nhau. Hòa bình lập lại, Tuân ra khỏi quân ngũ, đi học tiếp và tốt nghiệp Đại học Sư Phạm, làm thầy giáo. Sau đó được điều về Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam. Lương của Tuân Nguyễn năm đó là 93 đồng. Còn tôi, lâm vào cảnh khổ nạn văn chương Nhân văn Giai phẩm phải về tá túc bên bờ hồ Tây, nhập phường câu cá trộm…
Trong khi bạn bè thân thích, kể cả máu mủ ruột thịt, người yêu, đều xa lánh tôi, thì Tuân Nguyễn vẫn gắn bó, cưu mang tôi. Mặc dầu lúc này anh là người có chức danh của một cơ quan quan trọng, bắt đầu có tiếng tăm trên thi đàn. Tuân mò tìm được nơi tôi tá túc, thường xuyên mang cho tôi áo quần, tem gạo, phiếu thịt, kẹo, thuốc lá căng tin… (kẹo, thuốc lá do cơ quan bán theo tiêu chuẩn bậc lương). Mỗi lần đem cho như vậy, Tuân rất sợ tôi mếch lòng, tủi thân, nên bao giờ cũng tìm cách nói thác. “Có bộ áo quần mình thuê may hỏng, mặc rộng thùng thình cứ như áo tế. Cậu đậm người hơn mặc giúp mình cho đỡ phí”. “Một nhà báo ngoại quốc có nhận xét người Việt Nam ta rất có đầu óc hài hước. Hài hước ngay cả trong việc sản xuất bánh kẹo. Ngoài bao bì đề kẹo cứng thành kẹo mềm muốn chảy nước. Nếu đề kẹo mềm thì cắn muốn vỡ răng. Này, cậu khoẻ răng ăn giúp mình hai gói kẹo mè này”.
Một lần, tôi hỏi Tuân: “Cậu hay gặp mình, thế nào cơ quan họ cũng biết. Cậu không ngại à?” Tuân Nguyễn vốn là người ăn nói hết sức nhã nhặn, lịch sự ở cơ quan cấm ai thấy cậu ta văng tục. Nhưng chỉ khi hai đứa với nhau, hoài mệm cuộc sống lính tráng, cậu ta văng tục ào ào: “Có ngại cái con cặc. Đù mạ, mình căm ghét nhất là thói vô ơn! Nếu ngày đó cậu không chơi trò “Nhân danh tiểu đội trưởng” thì chắc mình đã nằm mục xương giữa trảng cát Phong Chương, Thanh Lam Bồ, Phú Đa, Hà Thanh… với một ruột tượng gạo thối mục đầy máu… Cậu quên rồi à, đúng cái hôm cậu phịa chuyện Phòng chính trị giao mình dịch truyền đơn địch vận, bốn cậu được cử đi lấy gạo, tụi phục kích xơi tái mất hai, cậu gì nhỉ, à cậu Lượng, cậu Vinh… Có đâu mình còn sống đến bây giờ mà đại học đại hiếc, nhà thơ nhà thiếc, phát thanh phát thiếc?… Cứt!”.
Năm 1963, vợ chồng tôi sinh con gái đầu lòng. Đến đón cháu ở nhà hộ sinh A, có bà ngoại cháu (bà đã mất năm 1986), tôi và Tuân Nguyễn.
Vợ tôi vui lắm, nói với hai người:
– Bà với chú Tuân thấy cháu có xinh không?
Tuân cúi xuống nhìn gương mặt nhỏ xíu còn đỏ hỏn của cháu, cười cười. Bà ngoại cháu vốn suốt đời chỉ biết công việc nội trợ, và gần như không biết chữ, buột miệng nói:
– Bây giờ thì mẹ mừng mừng rỡ rỡ thế đấy, không biết đời con rồi có ngóc đầu dậy được không!…
Bà ngoại và hai mẹ con đi xích lô về nhà. Tôi và Tuân lững thừng đi bộ dọc đường Ngô Quyền. Dáng vẻ cậu ta trở nên trầm ngâm và lặng lẽ. Im lặng một lúc khá lâu, Tuân chợt nói:
– Bà cụ nói thật khủng khiếp! Đó là lời tiên đoán về số phận những nghệ sĩ quyết định: “Yêu ai cứ bảo là yêu. Ghét ai cứ bảo là ghét. Dù ai ngon ngọt nuông chiều. Cũng không nói yêu thành ghét. Dù ai cầm dao doạ giết. Cũng không nói ghét thành yêu…”.
Lời nhận xét bất ngờ của Tuân làm tôi bất giác rùng mình. Một câu Kiều chợt ập đến trong đầu: “Đường xa nghĩ đến đoạn trường mà kinh!”.
Tuân bảo tôi:
– Bắt đầu từ hôm nay, mỗi tháng mình gửi cậu 5 đồng mua sữa cho cháu. Hàng tháng cứ đến ngày mùng ba – ngày mình lĩnh lương – cậu chịu khó đến chỗ mình. Sợ có khi mình mắc việc, không xuống chỗ cậu được Nếu mình đi công tác vắng, mình sẽ gởi lại chỗ cậu V. ở tổ thơ.
Ngày đó, 5 đồng mua được ba hộp sữa Ba Vì. Lúc chia tay, Tuân còn dặn thêm:
– Lỡ khi nào câu kéo không được gì, nếu tiện đường tạt vào chỗ mình mà ăn cơm. Cơm tập thể chỗ mình khá lắm…
Từ đấy, hôm nào cạn túi, tôi lại đạp xe lên 20 phố Tràng Tiền, bếp ăn tập thể của cơ quan Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam. May mắn được gặp Tuân là no bụng.
Tuân Nguyễn sống trong một gian buồng nhỏ, rộng chừng 8 mét vuông, ở tầng gác hai, ngay đằng sau gian nhà ăn tập thể. Buồng kê một giường cá nhân, một giá sách lớn che kín mặt tường chiều ngang. Cạnh giá sách là bàn viết. Đối diện cửa ra vào treo chân dung Dostoievsky lồng khung kính trên tường, phía đầu giường treo ảnh của cậu ta, phóng to, cũng lồng khung kính. Đó là hai vật trang trí độc nhất trong gian buồng.
Trên giá sách, có khoảng vài chục cuốn sách tiếng Việt. Còn lại là sách tiếng Pháp, tiếng Anh. Tiền lương tháng, ngoài tiền ăn, một ít dùng may mặc, tiền cho tôi, Tuân dồn hết vào việc mua sách. Tuân là khách quen của cửa hàng sách ngoại văn. Toàn tập Dostoievsky, toàn tập Chekhov, toàn tập Brecht, Maxim Gorki, Jack London…
Tôi đến, hầu như lúc nào cũng bắt gặp Tuân hí hoáy trước bàn viết. Trước mặt, hai ba cuốn sách mới… Tôi biết lúc này cậu ta hoàn toàn đắm mình trong suy tường, mộng mơ.
Đã từ lâu, Tuân chuẩn bị viết tác phẩm văn xuôi quan trọng của đời mình, anh tâm sự. Chủ đề tác phẩm là một thanh niên trí thức say mê cách mạng, lúc nào cũng sống trong mộng tưởng san phẳng hết mọi điều phi lý xúc phạm con người, và xây dựng một cõi địa đàng nhân loại.
Tuân Nguyễn đọc đến nát nhừ toàn tập Dostoievsky. Cậu ta đọc Đốt đến rạc cả người. Nhà văn mà Tuân đặt thành tích để vươn tới là Đốt. Tuân nói với tôi:
– Điều này mình chl nói riêng với cậu thôi. Nhiều đêm mình nằm mơ, cuốn sách của mình được in ra, và được những người sành văn đánh giá là xấp xỉ với Đốt.
Bạn hữu chúng tôi không ai bảo ai cùng gọi đùa Tuân là cụ Đốt. “Ta đến chơi cụ Đốt đi. Cụ Đốt vừa có thơ được in trên báo Văn Nghệ, ta đến bắt cụ khao một chầu thịt chó”.
Một bữa, tôi và một người bạn đến chơi, bắt gặp cụ Đốt trong tình trạng bứt rứt, buồn bã. Tôi hỏi: “Có chuyện gì thế, Tuân? Hay tại chúng mình đến chơi hơi nhiều, quấy rầy cậu?”. Và chúng tôi nháy nhau, dợm đứng lên, định chào ra về. Tuân vội đưa tay ngăn lại: “Các cậu chẳng có liên quan gì hết, Tuân nhìn đồng hồ đeo tay, nhà ăn sắp mở cửa rồi, đợi tý ta xuống ăn cơm”.
Tôi thầm đoán cậu ta chắc gặp chuyện gì rắc rối ở cơ quan. Nghe nói, trong đợt học tập Nghị quyết 9, cậu ta xin bảo lưu ý kiến, bị cơ quan đưa ra kiểm điểm vì những luận điệu ủng hộ chủ nghĩa xét lại Liên Xô. Cậu ta làm thơ ca ngợi Khrutsov, đả kích Mao và Stalin… Nói chung, vào thời gian ấy, những chuyện như thế là chuyện chết người cả.
Như đoán biết chúng tôi đang nghĩ gì, Tuân giải thích:
– Cách đây hai hôm, mình dọn dẹp lại gian buồng, quét tước mạng nhện… Mình gỡ chân dung Dostoievsky và bức ảnh của mình xuống, lau sạch bụi rồi treo lại. Vừa dọn dẹp xong thì có mấy cô sinh viên văn khoa đến chơi. Một cô nhìn lên giá sách, hỏi mình: “Anh đọc nhiều sách, thế theo anh nhà văn nào lớn nhất, anh khâm phục nhất?”. Lúc đó mình đang ngồi gần cửa ra vào. Theo thói quen, mình đưa thẳng tay chl lên chỗ treo chân dung Dostoievsky: “Ông này, chỉ một mình ông này thôi! Đó là thiên tài của các thiên tài!”. Các cô nhìn theo tay chỗ mình chỉ, không nói gì, nhưng đều quay lại nhìn mình với ánh mắt rất lạ, lúc đó mình không để ý…
Các cô về rồi, mình nhìn lên tường, thấy chân dung Dostoievsky treo hơi bị lệch. Mới bắc ghế đứng lên sửa lại. Nhìn gần mới biết té ra đó là ảnh của mình, chứ không phải chân dung Đốt. Thì ra, mình treo nhầm chỗ, do cận thị nên không nhận ra. Thế có chết người không chứ? Thảo nào, mấy cô đều quay lại nhìn mình với ánh mắt rất lạ, mà lúc đó mình không hỉểu tại sao. Không nói ra miệng, nhưng chắc chắn trong bụng các cô phải cho mình là một thằng cha kiêu căng đến ngu xuẩn!
Kể đến đó, nét mặt Tuân càng rầu rĩ, ủ rũ hơn. Tôi không sao nhịn được cười, tôi ôm bụng mà cười, tôi cười lăn lộn, cười chảy nước mắt nước mũi!
– Thì đã sao! Thì đã sao!… – tôi nói, càng cười dữ hơn – Cậu cũng là một cụ Đốt thứ hai đấy chứ! Nga thì Đốt Tôi, Việt Nam thì Đốt Tuân! Ha! Ha ha! Ha ha ha! Đó là một lầm lẫn vĩ đại!
Tuân nổi quạu, giận dữ nói:
– Cậu thì chuyện chi cũng tếu được!
Tôi cố nhịn cơn cười, đưa ống tay áo quệt nước mắt nước mũi, lấy giọng nghiêm túc nói:
– Theo mình, biết đâu chính sự lầm lẫn này là cái điều báo hiệu xuất hiện một tài năng lớn. Có lần cậu đã kể với mình, nhà thơ Nekrasov sau khi đọc tác phẩm đầu tay của Đốt, đã đội tuyết Petersburg đến nhà Belinsky lúc một giờ sáng, mà reo lên: “Tôi đến báo với anh một tin vui: Nước Nga xuất hiện một Gogol mới! Belinsky càu nhàu: các anh làm như Gogol là nấm không bằng. Quả nhiên, sau này Đốt còn vượt cả Gogol. Cũng có thể cậu rơi vào đúng trường hợp này. Mình biết cậu từ thuở 18, 19 tuổi. Mình không có cái tài tiên tri thấu thị của Nekrasov, nhưng mình có cái trực giác của người lính dãi dầu trận mạc. Mình đã tiên cảm trong tương lai, cậu sẽ là nhà văn làm sáng danh đất nước. Bởi vậy mà mình mới quyết định chơi trò “Nhân danh Tiểu đội trưởng”.
Cung cách Tuân Nguyễn trợ cấp tiền cho tôi hàng tháng mua sữa nuôi con, cũng rất… Tuân Nguyễn. Mỗi lần đưa tiền cho tôi, Tuân đều có vẻ ngượng nghịu, xấu hổ như anh đang làm một điều gì không phải với bạn. Tiền cậu ta bỏ sẵn trong phong bì dán kín – thứ phong bì vần dùng để viết thư trả lời các cộng tác viên của Đài. Tuân dúi phong bì vào túi áo tôi, mắt tránh không nhìn tôi. Dúi xong, cậu ta nói lảng ngay sang chuyện khác, thường là lấy cớ phải đến ngay cơ quan có cuộc họp quan trọng gì đó. Vừa bước vội xuống cầu thang Tuân vừa bắt tay tôi: “Hôm nào rỗi đến chơi. Bữa nay mình có chút việc bận, không vắng mặt ở cơ quan được”. Tôi biết Tuân không muốn ngồi lại với tôi, khi số tiền cậu ta cho vẫn còn nằm cộm trong túi áo tôi. Con gái tôi uống sữa của chú Tuân chu cấp cho đến lúc cháu bập bẹ biết nói. Rồi chú Tuân gặp nạn cho đến lúc cháu học hết cấp I, mới được gặp lại chú.
Tuân Nguyễn là người vỡ lòng cho tôi về Dostoievsky, cũng như hơn mười năm trước đó đã vỡ lòng cho tôi về niêm luật Đường thi. Nhờ cậu ta mà từ những năm 1961, 1962, tôi được biết nội dung tóm tắt những tác phẩm quan trọng nhất của Đốt. Từ tác phẩm đầu tay Những người cùng khốn đến các tác phẩm viết sau khi bị lưu đày ở Tây Bá Lợi Á mười năm: Kỷ niệm ngôi nhà những người chết, Những người bị lăng nhục và bị xúc phạm, Tội ác và hình phạt, Con bạc, Thằng ngốc, Đầu xanh tuổi trẻ, Lũ người quỷ ám, Anh em nhà Karamazov… Những câu văn của Đốt Tuân trích dẫn đã in khắc vào trí nhớ tôi cho mãi đến hôm nay: “Địa ngục nằm trong lòng những con người không còn biết yêu thương”, “Liệu chúng ta có quyền xây dựng lâu đài hạnh phúc cho nhân loại trên một giọt nước mắt của trẻ con?”. “Những con người đơn giản là những con người hết sức nguy hiểm”, “Cái đẹp sẽ cứu chuộc nhân loại”, v.v…
Về sau này, tôi được đọc khá nhiều những tác phẩm nghiên cứu về Đốt của các chuyên gia nổi tiếng, cả xã hội chủ nghĩa lẫn phương Tây, nhưng chưa một tác giả nào gây nên trong lòng tôi một ấn tượng kinh hoàng về thiên tài vô song, phong phú và phức tạp của Đốt, như Tuân Nguyễn. Một lần tôi đến chơi, đúng vào chiều ngày mồng ba… Bước vào buồng, tôi thấy Tuân đang tiếp ba cô gái, nữ sinh hay sinh viên gì đó. Cửa buồng mở rộng cả hai cánh, và ngọn đèn trên trần bật sáng chói. Tôi đứng khựng lại một chút ở ngưỡng cửa, liếc nhìn ba cô. Cô nào cũng đẹp ngời ngời. Tôi định chào xin lỗi bước ra, nhưng hai chân cứ như bị trói, không bước ra nổi. Tôi chưa bao giờ được nói chuyện với một, chứ đừng nói đến ba cô gái đẹp đến thế. Một ý nghĩ ganh ty chợt ập đến trong đầu: “Hắn với mình cùng lứa mà mình sao kém thế, còn hắn sao mà ngon thế!”.
Tuân Nguyễn thì hình như chẳng chú ý gì đến sắc đẹp ba cô gái. Cậu ta mời ba cô ăn bánh, chuối, kẹo, và… rao giảng Đốt. Bao giờ “bập” vào Đốt – mà bập thường xuyên – gương mặt Tuân cũng sáng lên một cách khác thường. Đó là gương mặt của những nhà truyền giáo lớn – tôi nghĩ. Cậu ta rao giảng Đốt như các nhà truyền giáo rao giảng Thánh Kinh. Có một khác biệt là Tuân rao giảng Đốt, không cần quan tâm người nghe có nghe và có hiểu hay không. Tôi thường nói đùa: “Tuân Nguyễn đang nhập đồng Đốt”. Chốc chốc Tuân ngừng lời, đưa tay lên giá sách, không cần nhìn, mà rút rất trúng tác phẩm nào đó của Đốt mà cậu ta cần dẫn chứng. Cậu ta lật lật rất nhanh những trang sách, đọc lên cái đoạn cần trích dẫn bằng tiếng Pháp rồi dịch miệng rất lưu loát. Để khỏi quấy rầy “cụ Đốt”, tôi ngồi nép mình ở góc buồng, chốc chốc lại ngước mắt nhìn những cái miệng xinh đẹp như bông hồng hàm tiếu, những hàng răng trắng như ngọc trai nhỏ nhẻ cắn bánh, nhai kẹo… những cặp mắt long lanh như mắt trẻ nít chăm chú nhìn “cụ Đốt” nhập đồng…
Tôi thì hầu như chẳng nghe thấy gì. Đốt điếc với tôi lúc này trở thành vô nghĩa. Tôi chỉ thèm rộn rực được hôn lên một trong ba cái miệng hé hé mở có mùi thơm trái chín cây kia, chỉ một lần thôi, rồi nằm lăn ra chết thẳng cẳng cũng đáng đời! “Các cô ăn chuối, ăn bánh đi…”, Tuân đưa tay lịch sự mời, cốt để lấy hơi rao giảng tiếp. Cậu ta đang giới thiệu với ba cô chương Ngài Đại pháp quan trong Anh em nhà Karamazov mà theo cậu ta, là khúc giao hường văn xuôi sáng giá nhất trong nền văn xuôi cổ kim của nhân loại. Cậu ta đọc một mạch cuộc đối thoại dữ dằn và hài hước giữa ngài Đại pháp quan đại diện của quyền lực vô song của Giáo hội và Pháp đình tôn giáo ở Y Pha Nho thế kỷ 15, với Chúa Trời giáng thế lần thứ hai: “Ông đấy à?”. Ông già Đại pháp quan gằn giọng hỏi. Chúa không trả lời. Ông ta nói tiếp: “Ông đừng nói gì mà lại hơn. Vả chăng ông biết nói gì bây giờ? Ông đã trao tất cả quyền năng cho Giáo hội chúng tôi. Chúng tôi đã mất 15 thế kỷ mới thiết lập được một trật tự như hiện nay, thiết lập nhân danh ông. Bởi vậy ông không có quyền xuất hiện lần thứ hai, và nói thêm bất cứ điều gì trước đây ông đã nói. Tại sao ông còn xuống đây gây rắc rối cho chúng tôi? Ông có biết ngày mai sẽ xảy ra chuyện gì không? Tôi chỉ cần chỉ vào mặt ông, lên án ông: Đây là một tên tà giáo! Và tôi chỉ cần phẩy tay ra hiệu, là đám quần chúng hôm qua cuồng nhiệt hôn dấu chân ông, sẽ trói nghiến ông lại ném ông vào giàn hoả!…”
Gương mặt, giọng nói của Tuân sáng rực niềm cảm xúc do đoạn văn tác động. Nom cậu ta lúc này thật quyết liệt, thật dữ dội. Cậu ta im lặng trân trân nhìn ba cô gái, như muốn ba cô chia sẻ niềm cảm xúc lớn lao đang rần rần trong huyết quản mình… Một trong ba cô, cô xinh nhất, đã chia sẻ niềm cảm xúc của cậu ta. Cô ngừng cắn trái chuối tiêu trứng cuốc, hỏi:
– Anh đã đọc cuốn Nam tước Phôn Gôn Rinh chưa? Cũng chuyện của Liên Xô. Sách dày ba tập mà em chỉ đọc có một đêm!
Cô ngồi cạnh liền đặt miếng bánh xuống, góp:
– Theo mình thì tác phẩm Chiếc khuy đồng còn hay hơn. Đọc mà tim cứ giật thon thót!
Mặt Tuân Nguyễn tự nhiên nghệch ra. Miệng hơi hé mở mà không nói được, như bị cấm khẩu. Cậu ta đỏ bừng mặt, nhìn ba cô như những sinh vật kỳ dị lạc vào buồng mình. Tôi thì sướng tỉnh cả người, nhảy vào chuyện luôn:
– Các cô đã đọc Chiến dịch Phượng Hoàng chưa? Sách vừa xuất bản, mới toanh. Nam tước Phôn Gôn Rinh và Chiếc khuy đồng còn phải gọi bằng cụ!
Cả ba cô lập tức quay sang tôi, như bất ngờ vớ được người cùng hội, cùng thuyền. Nét mặt ba cô vụt trở nên nhẹ nhõm, rạng rỡ như vừa trút được gánh nặng kinh người. Cả ba cô lúc này nom lại càng đẹp.
Cả ba cô tranh nhau thuật lại những chi tiết giật gân của mấy anh chàng tình báo vườn. Còn tôi thì tranh thủ bồi dưỡng cặp mắt mà hàng ngày không nhìn thấy gì khác ngoài mặt hồ rong rêu, tăm cá và khuôn mặt dữ dằn của mấy tay tuần hồ, chuyên rình rập tóm cổ bọn câu cá trộm chúng tôi. Tuân Nguyễn nổi quạu thật sự, đút Đốt vào giá sách, lẳng lặng ngồi vào bàn viết chúi đầu xuống cuốn sách đọc dở. Chốc chốc cậu ta quay lại hết nhìn các cô lại nhìn tôi như nhìn mấy con ruồi con muỗi cứ vo ve bên tai. Tôi cứ tảng lờ như không hay biết, cười nói hể hả góp chuyện với ba cô.
Tuân Nguyễn tiễn các cô về với vẻ lạnh nhạt cố ý. Còn tôi thì xăng xái theo các cô xuống hết các bậc cầu thang, tranh thủ ngắm các cô đàng sau. Eo, lưng, mông – lưng mềm như ngọn lửa – mông tròn như trứng chim – và những cặp đùi, nói theo kiểu trường ca Tây Nguyên – nếu gió thổi tung váy sẽ sáng chói như tia chớp!…
Lúc tôi trở lên, Tuân Nguyễn quạu cọ nói:
– Những chuyện bá láp như thế mà cậu cũng rỗi hơi bàn luận!
Tôi cười tràn:
– Cậu vẫn rao giảng cho mình điều rao giảng của Đốt: “Cái đẹp sẽ cứu chuộc nhân loại!”. Theo mình thì chỉ với ba cô này thôi cũng đủ cứu chuộc cho cả nhân loại rồi!
Sau cái đận “cứu chuộc nhân loại” kể trên, có đến hơn nứa tháng tôi mới đến thăm Tuân. Cậu ta bước ra hành lang đón tôi, gương mặt hốc hác, phờ phạc, hai mắt thâm quầng. Tôi lo lắng hỏi:
– Cậu ốm hay làm sao thế?
Tuân vuốt mớ tóc rũ xuống trán, nói:
– Dostoievsky thì năm đêm trắng, mình thì mười đêm trắng cậu ạ!
– Nhưng đầu đuôi thế nào?
Tôi đăm đăm nhìn người chiến hữu cùng tiểu đội năm nào, tên một tác phẩm của Đốt chợt hiện ra trong đầu: “Những người bị quỷ ám”. Tôi nghĩ cậu ta bị Đốt ám. Cái ma lực văn chương của thiên tài này thật kinh dị! Hai chúng tôi ngồi xuống mép giường còn buông màn, Tuân rầu rĩ kể:
– Thế này, mình gọi nhầm tên người và bị tát!… Mà là gọi nhầm tên người yêu mới chết chứ! Cách đây đúng mười hôm, mình mời cô ta đến chơi… Mình có ý định cầu hôn với cô ấy… Mình đang bối rối chưa biết mở dầu thế nào, thì nghe tiếng trẻ con reo hò dưới sân. Mình mới bước ra hành lang để nhìn xuống xem có chuyện gì. Mấy đứa trẻ trong khu tập thể đang vây quanh hai con gà trống xù lông, vươn cổ chọi nhau rất hăng. Mình vốn mê xem gà chọi từ nhỏ, thích quá liền ngoái đầu gọi cô ta cùng ra xem. Nhưng đáng lẽ gọi A ơi, ra xem hai con gà chọi nhau hay lắm! Mình lại nhịu ra thành B ơi. B. là tên một cô gái cũng có cảm tình với mình, cô A của mình cũng biết, hai cô này không ưa nhau… Thế là cô ta bước ngay ra, mắt nảy lửa, rít lên: “Anh là thằng đểu! Anh đang ngồi với tôi, nhưng đầu óc anh vẫn nghĩ đến con B., nên anh mới gọi nhầm ra thế? Mình chưa kịp phân trần thì đã bị ngay một cái tát. Rồi cô ta đùng đùng bỏ về… Suốt mười đêm nay mình thức trắng vì chuyện đó…
– Nhưng cô ta tên là gì mà cậu gọi nhầm là gì? – tôi thắc mắc hỏi.
Tôi là đứa ham cười. Nghe những chuyện như thế là tôi không sao nhịn được cười. Nhưng tôi sợ Tuân giận nên cũng cố làm bộ mặt đưa đám để chia sẻ nỗi khổ tâm của bạn.
Tuân lắc đầu, phẩy tay:
– Cậu không cần đi vào chi tiết làm gì. Chl cần biết đáng lẽ gọi là A., thì mình gọi là B.
Chúng tôi ngồi với nhau khoảng tiếng đồng hồ, nói đủ chuyện linh tinh. Nhưng tôi không sao tập trung được tư tưởng. Tôi quá tò mò muốn biết tên của cô gái bị gọi nhầm tên. Chọn đúng vào lúc cậu ta bất ngờ nhất, tôi làm như vô tình buông một câu:
– Nếu cô ta tên An mà gọi nhầm thành Lan, thì cũng dễ thanh minh thôi! Người ta lỡ miệng là thường…
Tuân buột miệng:
– Không, cô ta tên Nguyệt, mà mình lại gọi là Huệ, thanh minh thế nào được!
Đến đây thì tôi không sao nín nhịn được nữa. Tôi cười đến nỗi phái ôm chặt lấy bụng sợ lỡ đứt ruột như Trình Giảo Kim ba búa. “Đúng!… Đúng”, vừa nói tôi vừa nấc, “nhầm thế thì đến thánh cũng không thể thanh minh được! Nguyệt – Huệ! Hai vần tréo trẹo hẳn nhau!”.
Lâu lâu không thấy Tuân xuống Nghi Tàm chơi. Sợ cậu ta ốm đau gì chăng, tôi tìm lên Tràng Tiền. Cậu ta đang cắm cúi trước bàn viết.
Tuân đặt bút, tiếp tôi.
– Mình bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết mà mình vẫn nói chuyện với cậu… Mình hy vọng trong năm nay sẽ hoàn thành bản thầo lần thứ nhất… Thời tiết này mà đóng cửa buồng lại ngồi viết văn thì nhất. Nhưng khổ nỗi thời gian cứ bị cắt vụn vì những công việc của cơ quan…
Tôi buồn cười:
– Thời tiết này đối với dân câu chúng mình cũng nhất. Hồ Tây đêm đêm mờ mịt mưa xuân. Chúng mình đang hồi hộp đón vụ cá vật đẻ đầu tiên trong năm.
– Cậu bỏ văn rồi à? – Tuân băn khoăn hỏi tôi.
– Không bỏ cũng coi như bỏ, tôi nói: viết mà không ai in thì viết làm gì?
Lần đó, tôi dùng năm đồng Tuân trợ cấp sữa cho cháu sắm thêm mấy bộ lưỡi câu chùm, loại chuyên dùng để giật cá vật đẻ.
Tháng ba. Trời nồm ẩm ướt gần suốt cả tháng. Đường phố Hà Nội lép nhép bùn. Thềm nhà xi măng, đá hoa các nhà chảy nước. Dân trong Thành phố bực dọc nguyền rủa thời tiết. Dân câu ven Hồ Tây chúng tôi lại vui mừng hết chỗ nói. Hồ Tây cá trở mình suốt đêm. Cá cái như chép, diếc, thầu dầu… bụng căng trứng nôn nóng chờ mưa rào…
Ngày hôm đó, trời đổ mưa rào, trận mưa rào đầu tiên. Người ta gọi trận mưa rửa bùn. Dân câu chúng tôi gọi là trận mưa tiền. Đêm nay, sẽ bắt đầu từ lúc nửa đêm, cá từ giữa hồ sẽ lao thẳng vào bờ vật đẻ dưới các vùng bèo do chúng tôi chuẩn bị sẵn, trong các đám rong đuôi chó, cây niểng, cây sậy nước mọc gần bờ… Bọn cá vật đẻ từ nửa đêm cho đến rạng sáng chúng hoàn tất vụ sinh đẻ đầu tiên trong năm.
Khoảng bảy giờ tối, tôi đang dùng đá mài chuốt lại mấy bộ lưỡi câu. Tuân Nguyễn đột ngột dắt xe bước vào. Cậu ta lấy trong túi xách ra một bao thuốc Điện Biên và một gói trà Thanh Hương:
– Cậu pha trà đi. Đêm nay mình sẽ tra tấn cậu đây Mình đọc cho cậu nghe hai chương đầu cuốn tiểu thuyết vừa chép sạch xong!
Tôi suýt buột miệng: “Hay cậu để đến đêm mai có được không?”, nhưng kịp ghìm lại. Tôi cũng đã từng viết văn, tôi biết rõ cái tâm trạng háo hức, hồi hộp của người viết khi quyết định đọc những trang viết đầu tay cho bạn mình nghe. Đó là mối tình đầu của chàng trai mới lớn. Tôi không muốn bạn mình cụt hứng. Nhưng, tôi thầm nghĩ, tại sao hắn lại chọn đúng cái đêm nay mà đọc văn cơ chứ? Với dân câu chúng tôi, mỗi năm chỉ có một vài đêm như đêm nay.
Tôi đang hy vọng sẽ kiếm được một yến cá chép. Năm ngoái, cũng đúng vào thời điểm này tôi kiếm được hơn mười sáu cân cá, và một con rắn cạp nong lớn đi ăn trứng cá. Tôi bán tất mang tiền về cho vợ. Vợ tôi mừng ứa nước mắt. Với tôi, những đêm như đêm nay, mọi chuyện văn chương thơ phú chẳng có ý nghĩa gì hết so với một yến cá chép!…
Tôi đành xếp dọn đồ nghề câu, nấu nước pha trà.
Tuân rút tập bản thảo, lật lật từng trang, bên ngọn đèn dầu tù mù, vẻ mặt căng thẳng.
– Tên tác phẩm: Một người mơ mộng. Nhân vật chính là Lê Tuấn. chương một dài hai mươi bốn trang… Chương hai dài hai mươi sáu trang… – Tuân khẽ khàng giới thiệu.
Cậu ta hắng giọng, đọc chậm rãi, rõ từng dấu chấm phẩy. Chốc chốc lại bỏ kính trắng xuống đăm đăm nhìn tôi ánh mắt dò hỏi: “Mình viết thế có được không?”. Tôi làm bộ chăm chú nghe nhưng tâm trí để hết ngoài bờ hồ, chỉ cách cái túp của tôi một vườn quất của anh Cả Tựu, hàng xóm. Cá ngoài hồ trở mình mỗi lúc một căng. Chúng đang từ giữa hồ lao vào bờ. Những nàng chép cái, mỗi nàng nặng cỡ hai, ba ký, bụng chửa vượt mặt, dắt theo cả chục chàng chép đực rốn cương sẹ (tinh trùng của cá) – cá cái vật đẻ phun trứng vào rễ bèo, vào những lùm rong đuôi chó, vào gốc các bụi cây mểng, cây sậy mọc chìm dưới nước… Cá cái phun trứng đến đâu, cá đực xô nhau tưới sẹ lên trứng. Chúng hoàn toàn đắm mình trong cuộc giao hoan, không còn biết trời đất là gì. Chúng tôỉ chỉ việc thả lưỡi câu chùm xuống, nhấc ngang, nhấc dọc, kéo cổ chúng lên khỏi mặt nước. Để tranh thủ thời gian, giật được con nào, chúng tôi vứt luôn chúng xuống giữa các rãnh cây, nắn vội lại bộ lưỡi câu chùm thả xuống giật tiếp. Ít có một giống vật nào say mê tình dục như bọn chép đực. Nằm phơi mình trên mặt đất chờ chết, chúng vẫn giẫy đành đạch, tiép tục phun sẹ đọng thành vũng trắng loang lổ mảu sữa…
Nhưng chỉ một lát sau, những trang viết của Tuân bắt đầu cuốn hút tôi, làm tôi quên phứt bọn cá vật đẻ, và cái sướng run người khi nhấc cái cần câu nặng trĩu, ngọn cần cong chúi xuống nước vì bị một anh chép cỡ một, hai ký lôi kéo sợi dây câu, cố sức vùng vẫy thoát khỏi những lười câu có ngạnh sắc như gươm báu, cắm ngập vào da thịt? Đồng thời với cái sướng của bản năng giết chóc, săn bắn nằm sẵn trong máu của con người có từ thời nguyên thuỷ, là cái sướng ước lượng tức khắc số tiền mà các anh chàng, cô nàng sẽ mang lại sáng hôm sau, khi đặt các “chàng, nàng” lên bàn cân mấy bà buôn cá… Và tiếp đó là ánh mắt rạng rỡ của con gái được bố cho tiền ăn quà sáng, và nụ cười sắp- chết-đuối-vớ-được-cọc của vợ, lương tháng giáo viên đã tiêu đến đồng cuối cùng, và ngày mai đến kỳ đong gạo sổ mà chưa biết vay ai… Tôi ngồi, hai cánh tay bó gối, nghe Tuân đọc văn mỗi lúc một chăm chú hơn. Không hiểu sao tự nhiên tôi ứa nước mắt. Những trang văn thấm đượm chất thơ của Tuân làm sống dậy trong tôi niềm mơ ước được trở thành nhà văn, mà cuộc sống nghiệt ngã đã chôn vùi từ lâu. Tuân đã đọc xong hai chương đầu cuốn tiểu thuyết đậm màu sắc tự truyện, tôi vẫn ngồi bó gối không nhúc nhích. Tôi muốn nói một điều gì mà cổ tự nhiên nghẹn tắc. Từ đáy lòng tôi dâng lên một nỗi buồn kinh khiếp. Đó là nỗi buồn khi đọc một nhà văn đồng thời, và tự phát hiện mình không bao giờ viết nổi những trang viết như anh ta? Buồn vì tủi thân, và cả vì đố kỵ…
Tôi đâm giận thân, giận đời… Tôi nghĩ: nếu hoàn cảnh không xô đẩy mình đến cảnh huống cùng quẫn như hiện nay, thì có lẽ mình cũng đã viết được một cái gì, có thể không bằng nhưng cũng suýt soát được như Một người mơ mộng. Hai mươi tuổi mình đã viết được Vượt Côn Đảo kia mà… Để khỏi phải nói ra với Tuân những đau đớn, dằn vặt vụt nổi lên trong lòng như một cơn lốc Hồ Tây, tôi đứng lên, đi xuống bếp.
– Chắc cậu đói rồi – mình nấu nồi cháo cá đãi cậu. Mình còn con chép hơn nửa ký đang rộng dưới cầu ao… – vừa nhóm bếp, tôi vừa nói vọng lên – Còn tiểu thuyết thì mình muốn nghe thêm vài chương nữa. Mình sẽ để hẳn một buổi để thảo luận với cậu!
Thế mà không ngờ đó là hai chương tiểu thuyết đầu tiên mà cũng là cuối cùng – tác phẩm mộng tưởng của cả đời Tuân Nguyễn – mà tôi được nghe.
Cho đến tận khi ngồi viết những dòng này, tôi vẫn không nguôi hối tiếc tại sao hôm đó tôi không mượn và chép giữ lại hai chương tiểu thuyết đó?… Được vậy thì độc giả hôm nay, ngoài thơ ra có thể thưởng thức văn xuôi của Tuân Nguyễn. Và tôi tin rằng độc giả sẽ bị thuyết phục, vì văn xuôi của Tuân được tôi rèn kỹ lưỡng trong lò văn Dostoievsky. Nhưng, nói như người xưa, có ai học được chữ ngờ…
Ngày 21 tháng 10 năm 1964, Tuân Nguyễn bị bắt. Và sau đó là thời gian đi tù chín năm bảy tháng…
Tôi còn nhớ rõ được như vậy vì lúc Tuân bị bắt, con gái tôi, – được Tuân chu cấp sữa hàng tháng – mới chưa đầy hai tuổi. Lúc Tuân được thả về cháu đã học hết cấp một. Tội danh của Tuân và vì sao Tuân bị bắt, ngày đó tôi không được biết tường tận cho lắm: Tôi chỉ biết Tuân Nguyễn bị bắt vào buổi sáng, thì buổi chiều tôi lò dò đến 20 phố Tràng Tiền. Hôm đó tôi cạn túi, định ghé vô ăn chực Tuân một suất cơm tập thể… Tôi đang loay hoay tìm chỗ dựng xe đạp trước cửa nhà ăn thì nhà thơ Trần Nguyên Vấn, cũng là dân Huế và làm cùng cơ quan với Tuân, từ bên trong nhà ăn sải bước chân ra, vẻ mặt thất sắc, hớt hải. Vấn đến sát bên tôi, ghé sát tai thì thầm: Quán về ngay đi. Tuân Nguyễn vừa bị bắt sáng nay…
Tôi lây nỗi khiếp hãi của Vấn, nhảy phóc lên xe đạp phóng như điên về Nghi Tàm. Tôi chệnh choạng dựa xe vào phên liếp, hai chân bỗng như bị đốn… Tôi nàm dài ra nền nhà, mặt úp xuống đất, khóc nấe lên, một nỗi đau đớn không tên, quặn thắt trong tim tôi…